Vai trò của phẫu thuật tạo hình trong điều trị ung thư vú
Ung thư vú chiếm vị trí hàng đầu của các loại ung thư ở phụ nữ. Xu hướng và quan niệm trong điều trị ung thư vú thay đổi căn bản trong những thập kỷ gần đây nhờ những tiến bộ về mặt chẩn đoán và phẫu thuật. Phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú cùng cơ ngực lớn có kèm nạo vét hạch nách theo Halsted rất thịnh hành trước những năm 60 của thế kỷ trước thường gây ra những tàn phá nặng nề cả về tâm lý và thể chất của bệnh nhân. Phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú triệt căn (radical surgery) có bảo tồn cơ ngực to và nạo vét hạch của Patey đã được chỉ định rộng rãi hơn, các nghiên cứu cho thấy mặc dù tỉ lệ sống thêm của bệnh nhân không khác với kỹ thuật Halsted, nhưng kỹ thuật này ít để lại những di chứng nặng nề và phần nào đảm bảo về mặt thẩm mỹ. Cùng với những thành tựu của y học trong những thập kỷ tiếp theo, việc chẩn đoán sớm ung thư vú cho phép mở ra một hướng điều trị có hiệu quả hơn, đó là phẫu thuật bảo tồn vú (conservative surgery) kết hợp xạ trị hoặc hoá trị liệu. Veronesi (1986) là người khởi xướng ra kỹ thuật cắt vú bảo tồn trong đó các khối u vú có kích thước nhỏ hơn 3cm được cắt bỏ rộng rãi cùng một phần tuyến vú cho phép giảm tối đa những biến dạng về hình thể và chức năng của vú. Song song với sự thay đổi về mặt kỹ thuật phẫu thuật, thành phần của các chuyên khoa tham gia điều trị ung thư vú càng tăng lên. Cho đến nay tại nhiều nước tiên tiến, điều trị ung thư vú được thực hiện bởi một nhóm các bác sỹ thuộc các chuyên ngành khác nhau như ngoại khoa, phẫu thuật tạo hình, chẩn đoán hình ảnh, giải phẫu bệnh, ung thư, dịch tễ học, sinh học phân tử, gen học và tâm lý học.
Xu hướng mới trong phẫu thuật ung thư vú là giảm tối đa phẫu thuật nhiều lần (surgical muti- lation) nhưng vẫn cải thiện được kết quả thẩm mỹ và chức năng của vú. Vai trò của phẫu thuật tạo hình ngày càng thay đổi để phù hợp với xu hướng mới này. Cũng nhờ những tiến bộ của phẫu thuật tạo hình, diện mạo của phẫu thuật ung thư vú được thay đổi. Từ chỗ các kỹ thuật tạo hình chỉ được áp dụng sau khi liệu trình điều trị ung thư vú kết thúc với mục đích tái tạo vú hay điều trị các di chứng do xạ trị (delayed breast reconstruction), cho đến các kỹ thuật tạo hình hiện đại đã được thực hiện cùng một thì với phẫu thuật cắt bỏ khối u vú nhằm đảm bảo tối đa chức năng và hình thể của vú (immediate breast reconstruction). Các kỹ thuật tạo hình đều không ảnh hưởng tới thời gian sống thêm của bệnh nhân, không tăng nguy cơ tái phát của ung thư vú đã phẫu thuật, không kích thích di căn của khối u, mặt khác kết quả phẫu thuật còn cho phép người bệnh tìm lại được sự hoàn chỉnh của cơ thể mình, giảm tối đa những tổn thất về tinh thần và thể chất. Cũng từ đây xuất hiện một thuật ngữ mới, phẫu thuật tạo hình ung thư (oncoplastic surgery), trong đó có có sự kết chặt chẽ của các phẫu thuật viên tạo hình và phẫu thuật viên ung thư nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc điều trị phẫu thuật ung thư vú.
Trong bài báo này, chúng tôi giới thiệu một số kỹ thuật tạo hình hiện đại điều trị ung thư vú đang được áp dụng phổ biến tại một số nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
1. Tạo hình vú bằng túi độn ngực (breast prostheis)
Túi độn ngực bắt đầu được sử dụng trên người vào những năm 1960, cho tới nay chất lượng và độ an toàn của các loại túi độn ngực đã thay đổi cơ bản. Thành của túi độn ngực được làm bằng silicon (polyurethrane) có đặc tính trơ với đáp ứng của cơ thể, ngoài ra không gây kích ứng, không gây viêm, không gây ung thư hay bệnh tự miễn. Thành túi được bao phủ một lớp đặc biệt có tác dụng chống sự hình thành tổ chức xơ xung quanh nơi đặt túi. Dịch bên trong túi có thể là huyết thanh, gel lỏng hay gel đặc. Hình dáng của túi độn thay đổi tuỳ theo hãng sản xuất. Có hai loại túi độn ngực phổ biến hiện nay được dùng trong tạo hình ung thư vú: túi độn ngực huyết thanh, có van để bơm dịch huyết thanh trong khi phẫu thuật; túi độn ngực gel sili- con, không có van và gel đã được đóng sẵn trong một túi kín.
Tạo hình vú bằng túi độn ngực là phương pháp đơn giản và được áp dụng cho những trường hợp khuyết không nhiều da và tổ chức dưới da vùng vú cắt bỏ, đặc biệt cơ ngực to còn bảo tồn ở bên vú bị cắt bỏ. Phẫu thuật đặt túi độn ngực có thể thực hiện tức thì ngay trong thì phẫu thuật bảo tồn, với trường hợp khối u bé, không có điều trị tia xạ kết hợp. Tạo hình toàn bộ vú bằng túi độn ngực được chỉ định cho những bệnh nhân đã được phẫu thuật Patey, không có điều trị tia xạ kết hợp, thời gian tạo hình thích hợp nhất là 12 tháng sau khi cắt bỏ ung thư vú.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích