vai trò của siêu âm Doppler tim trong theo dõi kết quả điều trị đóng lỗ thông liên nhĩ ở trẻ em
Thông liên nhĩ (TLN) là một trong các bệnh tim bẩm sinh thường gặp nhất: chiếm 10% các bệnh tim bẩm sinh ở trẻ nhỏ và dễ bị bỏ qua vì bệnh diễn biến âm thầm và ít gây ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày của trẻ, ngoài việc có thể làm chậm phát triển về mặt thể chất và khả năng hoạt động gắng sức của trẻ [3; 8]. Vì vậy có nên đóng lỗ TLN ở trẻ nhỏ hay không vẫn còn nhiều tranh cãi. Cả hai phương pháp phẫu thuật vá lỗ TLN và bít lỗ TLN bằng dụng cụ (Amplatzer) đều có hiệu quả và độ an toàn như nhau trong việc làm giảm hoặc mất shunt qua vách liên nhĩ [7; 9]. Tuy nhiên thực hiện đóng lỗ TLN trên trẻ nhỏ lại có nguy cơ cao và rủi ro hơn nhiều so với người lớn (vì trẻ càng nhỏ cân thì càng có nguy cơ cao trong phẫu thuật và gây mê hồi sức) [6]. Và làm thế nào để có thể dễ dàng, tiện lợi trong việc theo dõi đánh giá kết quả sau khi đóng TLN trên trẻ nhỏ? Đã có nhiều tác giả nước ngoài dùng siêu âm – Doppler tim, một phương pháp thăm dò không chảy máu để theo dõi kết quả đóng TLN, đặc biệt ở trẻ em [6; 8]. Do vậy, mục tiêu:
Đánh giá vai trò của siêu âm – Doppler tim trong theo dõi kết quả điều trị đóng lỗ Thông liên nhĩ (TLN) ở các bệnh nhi dưới 15 tuổi.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: bao gồm những bệnh nhi ≤ 15 tuổi được chẩn đoán là TLN đơn thuần, kiểu lỗ thông thứ hai tại viện Tim Mạch – BV Bạch Mai từ tháng 03/2007 đến hết tháng 3/2008 và có chỉ định đóng lỗ TLN bằng dụng cụ hoặc phẫu thuật vá lỗ TLN.
2. Trình tự nghiên cứu: tất cả các bệnh nhân
nghiên cứu đều được:
– Khám lâm sàng chi tiết theo mẫu bệnh án riêng, làm các xét nghiệm cơ bản, điện tâm đồ, chụp tim phổi thẳng.
– Thăm dò siêu âm – Doppler tim trước khi đóng lỗ TLN trong vòng 24 – 48 giờ và sau khi đóng lỗ TLN tại các thời điểm: trong vòng 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng.
3. Dụng cụ, phương tiện: máy siêu âm – Doppler tim màu nhãn hiệu LOGIQ 500 của Hoa Kỳ có đầy đủ các kiểu thăm dò siêu âm: kiểu TM, 2D, Doppler xung, Doppler liên tục và Doppler mầu tại phòng Siêu âm tim, viện Tim mạch quốc gia Việt Nam.
4. Cách thức tiến hành: qua siêu âm tim 2D, siêu âm TM, siêu âm – Doppler màu, chúng tôi tập trung khảo sát các thông số siêu âm – Doppler tim sau: đo kích thước các buồng tim (chú ý đường kính thất phải, thân động mạch phổi), đánh giá vận động của vách liên thất, thăm dò dòng chảy qua các van tim và đặc biệt qua lỗ TLN, xác định vị trí và đo kích thước lỗ TLN, chênh áp tối đa và chênh áp trung bình qua van động mạch phổi (ĐMP), tính áp lực ĐMP, đánh giá lưu lượng máu lên phổi qua tỷ lệ Qp/Qs.
5. Xử lý số liệu: bằng phần mềm EPI – INFO 6.0 của Tổ chức Y tế Thế giới
Mục tiêu: đánh giá vai trò của siêu âm – Doppler tim trong theo dõi kết quả điều trị đóng lỗ Thông liên nhĩ (TLN) ở các bệnh nhi dưới 15 tuổi. Phương pháp nghiên cứu: 31 bệnh nhân (20 nữ/11 nam) tuổi trung bình 9,19 ± 4,58 (2 – 15 tuổi) có chỉ định đóng TLN (chậm phát triển về thể chất và/hoặc thất phải giãn trên siêu âm) với đường kính trung bình lỗ TLN đo trên siêu âm là 20,71 ± 7,81mm và Qp/Qs trung bình 3,04 ± 1,37 được theo dõi sau đóng TLN tại các thời điểm 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Kết quả: sau đóng lỗ TLN: tất cả các bệnh nhân đều tăng cân. Đường kính thất phải và thân ĐMP giảm rõ rệt với p < 0,0001. Không có trường hợp nào có shunt tồn lưu qua vách liên nhĩ. Kết luận: siêu âm – Doppler tim là 1 phương pháp thăm dò không chảy máu hữu ích giúp theo dõi đánh giá kết quả đóng TLN ở trẻ em. Từ kết quả nghiên cứu thu được cho thấy việc đóng TLN ở trẻ em nên thực hiện càng sớm càng tốt khi có chỉ định vì giúp nhanh chóng bình thường hoá các buồng tim phải và các cháu phát triển tốt về mặt thể chất.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích