Vai trò của siêu âm tim gắng sức bằng xe đạp lực kế trong chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ

Vai trò của siêu âm tim gắng sức bằng xe đạp lực kế trong chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ

Vai trò của siêu âm tim gắng sức bằng xe đạp lực kế trong chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ

Mục tiêu: Đánh giá giá trị của phương pháp siêu âm tim gắng sức bằng xe đạp lực kế trong chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ (BTTMCB).

Phương pháp: 59 bệnh nhân đau ngực trái điển hình hoặc không điển hình tuổi trung bình 58 ± 7, 31 (năm), có yếu tố nguy cơ của bệnh ĐMV và điện tâm đồ không rõ ràng của BTTMCB, siêu âm tim khi nghỉ không có rối loạn vận động vùng, men tim bình thường. Các bệnh nhân này được tiến hành đồng thời siêu âm tim gắng sức đánh giá bằng rối loạn vận động vùng thành tim và biến đổi điện tâm đồ trong quá trình gắng sức. Sau đó, các bệnh nhân được chụp ĐMV đối chiếu. Siêu âm tim gắng sức được coi là dương tính khi xuất hiện rối loạn vận động vùng mới xuất hiện. Bệnh nhân được siêu âm tim khi nghỉ, giai đoạn gắng sức 25W, tại đỉnh gắng sức và giai đoạn hồi phục.

Kết quả: 19 bệnh nhân có hẹp ĐMV > 50%. Siêu âm tim gắng sức dương tính trong 17 trường hợp trong số 19 ca hẹp ĐMV có ý nghĩa (28,80%) và âm tính 52 trường hợp

( 71,2%). Độ nhậy, độ đặc hiệu, giá trị chẩn đoán dương tính, giá trị chẩn đoán âm tính của siêu âm tim gắng sức dựa vào rối loạn vận động vùng tương ứng là 84,2%, 97,5%, 94,1%, 92,8%. Khi phối hợp với biến đổi điện tâm đồ, giá trị của phương pháp tương ứng là 94,7%, 82,5%, 72%, 97%. Độ nhậy, độ đặc hiệu trong chẩn đoán ĐM liên thất trước là 88,9%, 97,5%, ĐM mũ là 62,5%, 100%, và ĐMV phải là 50%, 100%.

Kết luận: Siêu âm tim gắng sức là một phương pháp có giá trị trong chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Siêu âm tim gắng sức là một thăm dò không xâm nhập, giúp chẩn đoán và phân tầng nguy cơ bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ vai trò của phương pháp này trong chẩn đoán BTTMCB. Vì vậy, chúng tôi tiến hành siêu âm tim gắng sức bằng xe đạp lực kế ở 59 bệnh nhân đau ngực trái nghi ngờ BTTMCB từ tháng 11 năm 2008 đến tháng 11 năm 2009 có đối chiếu với chụp ĐMV ở những bệnh nhân này để đánh giá giá trị của phương pháp.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân Các bệnh nhân đau ngực trái điển hình hoặc không điển hình, có điện tâm đồ không điển hình của BTTMCB tại Viện Tim mạch TW từ tháng 11/2008 đến tháng 11/2009.

Tiêu chuẩn loại bệnh nhân:

Đau thắt ngực trong vòng 24 giờ qua.

Viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim cấp

Loạn nhịp: NTT thất nhiều ổ hoặc chùm, nhịp nhanh nhĩ và thất, rung cuồng nhĩ.

Block nhĩ thất cấp II và III.

Nhịp tim chậm < 45 chu kỳ / phút lúc nghỉ

Suy tim NYHA 4

Hẹp khít van động mạch chủ (có tiền sử xỉu ngất)

Bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn.

Tăng huyết áp nặng khi nghỉ: HA tâm thu > 220mmHg và HA tâm trương >110

mmHg

Bệnh nhân có bệnh thực thể nặng: nhiễm khuẩn, thiếu máu, suy thận nặng, tiểu đường chưa khống chế được, bệnh ác tính, bệnh phổi tắc nghẽn, hạ kali máu.

Ngộ độc Digitalis

Bệnh nhân không có khả năng đạp xe: bệnh mạch máu ngoại biên, cụt chân, bệnh cơ xương khớp.

Bệnh nhân không hợp tác.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment