VAI TRÒ ĐO ĐỘ BẢO HÒA OXY LIÊN TỤC THEO MẠCH ĐẬP TRONG CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ KHI NGỦ
VAI TRÒ ĐO ĐỘ BẢO HÒA OXY LIÊN TỤC THEO MẠCH ĐẬP TRONG CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ KHI NGỦ
Nguyễn Thị Hổng Anh , Trần Văn Ngọc*
TÓM TẮT
Mở đầu: Hiện nay tiêu chuẩn vàng đểchẩn đoán hội chứng ngưng thở khi ngủ (HCNTKN) là đa ký hô hấp hoặc đa ký giấc ngủ, tuy nhiên các xét nghiệm này đắt tiền, tốn thời gian và nhân lực. Một số nghiên cứu đề nghị sử dụng máy đo độ bão hòa oxy (SpO2) liên tục ở mao mạch để chẩn đoán HCNTKN, đây là xét nghiệm rẻ tiền, dễ thực hiện và có thể thực hiện đại trà nhiều nơi. Nhiều chỉ sô’được thu nhận từ máy đo SpO2 liên tục ở mao mạch, trong đó có hai chỉ sô’được ứng dụng trong chẩn đoán HCNTKN đó là: Tỉ lệ phần trăm thời gian có SpO2 < 90% (CT – 90) và tổng sôô lần có giảm Spo2 <4% trong mỗi giờ (ODI).
Mục tiêu nghiêncứu:Xácđịnhgiátrịcủađođộ bão hòa oxy liêntụcở maomạchtrongchẩnđoán
HCNTKN.
Phương pháp: Đây là nghiên cứu cắt ngang phân tích.Bệnh nhân được chọn khi có than phiền về ngáy và buồn ngủ ngày quá mức, đến khám tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2009 đến 06/2010.
Kết quả: Tùy thuộc vào giá trị ngưỡng ODI, CT-90 và mức độ bệnh sẽ có độ nhạy và độ đặc hiệu khác nhau. Trong trường hợp chẩn đoán bệnh nhẹ với giá trị ngưỡng ODI =6 thì độ nhạy 97,6%, độ đặc hiệu 97,6%; trong trường hợp bệnh trung bình thì với giá trị ngưỡng ODI =16 độ nhạy 98,5%, độ đặc hiệu 82,5%; Và để chẩn đoán bệnh nặng với giá trị ngưỡng ODI = 27 độ nhạy 97,9%, độ đặc hiệu 80,8%.Khi chọn giá trị ngưỡng CT-90 =1, trong trường hợp chẩn đoán bệnh nhẹ thì độ nhạy 90,5%, độ đặc hiệu 86,5%; trong trường hợp bệnh trung bình thì độ nhạy 97%, độ đặc hiệu 60%; trong trường hợp bệnh nặng thì độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 50%.
Kết luận: Đo độ bão hòa oxy liên tục ở mao mạch là xét nghiệm rẻ tiền không xâm lấn cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán HCNTKN.
MỞ ĐẦU
Hội chứng ngưng thở khi ngủ (HCNTKN) là ngưng hô hấp lặp đi lặp lại trong khi ngủ, từ đó gây giảm oxy trong máu(2). HCNTKN nếu không điều trị sớm sẽ gây nhiều hậu quả cho người bệnh. Ước lượng tỉ lệ bệnh HCNTKN do tắc nghẽn trên người lớn là 3% – 7% ở nam và 2% – 5% ở nữ(8). Tại châu Á, tỉ lệ này ở nam và nữ trung niên lần lượt là 4,1% – 7,5% và 2,1% – 3,2%(4). Một số’ nghiên cứu cho thấy người châu Á ít béo phì hơn người châu Âu, nhưng độ nặng của HCNTKN do tắc nghẽn ở người châu Á lại tương tự như ở người châu Âu(6). Vì vậy, việc phát hiện và điều trị sớm HCNTKN ở người Việt Nam là một vân đề cấp thiết. Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán HCNTKN là đa kí hô hấp hay đa kí giấc ngủ. Tuy nhiên chi phí thành lập một đơn vị chẩn đoán HCNTKN là khá cao, ngoài nguồn nhân lực còn cần phải trang bị máy đo đa kí hô hấp hoặc máy đo đa kí giấc ngủ, phòng cách âm,…. Hiện nay, tại Việt Nam chỉ có bệnh viện Chợ Rẫy là có đơn vị chẩn đoán HCNTKN mà thôi. Bệnh nhân muốn được chẩn đoán HCNTKN thì cần phải đăng kí chờ đợi đến lượt để được thực hiện, sau đó phải nhập viện và ngủ một đêm tại bệnh viện với chi phí cao…. Vì vậy, việc tìm kiếm một phương pháp chẩn đoán HCNTKN với chi phí thấp, bệnh nhân không cần ngủ một đêm tại bệnh viện và có thể thực hiện đại trà nhiều noi là một câu hỏi được đặt ra. Một số’ nghiên cứu có đề cập đến việc sử dụng các thông số’ của độ bão hòa oxy qua mạch đập (SpƠ2) liên tục ở mao mạch, trong đó có hai chỉ số’ được ứng dụng trong chẩn đoán
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất