VAI TRÒ MÔ BỆNH HỌC TRONG DỰ ĐOÁN BIẾN CHỨNG U NGUYÊN BÀO NUÔI SAU CHỬA TRỨNG

VAI TRÒ MÔ BỆNH HỌC TRONG DỰ ĐOÁN BIẾN CHỨNG U NGUYÊN BÀO NUÔI SAU CHỬA TRỨNG

 Việt Nam là một trong những nước trên thế giới có tỷ lệ chửa trứng cao. Theo báo cáo của Dương Thị Cương hàng năm số bệnh nhân chửa trứng trong cả nước là 9143, tỷ lệ chửa trứng chiếm 1,5/1000 phụ nữ có thai, tỷ lệ tử vong sau 5 năm theo dõi là 12% do chửa trứng xâm nhập và 25% do ung thư nguyên bào nuôi. Tương tự, tỷ lệ chửa trứng đã được báo cáo ở một số nước châu á khác như Nhật Bản: 1,95/1000 phụ nữ có thai, Phillipines: 1,1/1000 phụ nữ có thai.

Tất cả bệnh nhân chửa trứng toàn phần (CTTP) được nạo ngay sau khi chẩn đoán, sau đó phải theo dõi hCG trong nước tiểu liên tục trong 2 năm để phát hiện biến chứng u nguyên bào nuôi (UNBN). Tuy nhiên, có 2 vấn đề liên quan đến phương pháp phát hiện UNBN và điều trị dự phòng sau nạo trứng.
– UNBN chỉ được phát hiện khi khối u đã thật sự phát triển.
-Việc sử dụng hoá liệu pháp cho tất cả bệnh nhân chửa trứng là không thích hợp, vì nó liên quan đến tỷ lệ nhiễm độc gan cao: 35% (Goldstein, 1982), trong khi chỉ vào khoảng 20% (Nguyễn Cận, 1987) bệnh nhân chửa trứng có biến chứng UNBN. Do vậy việc xác định bệnh nhân có nguy cơ cao phát triển thành UNBN tại thời điểm nạo hút trứng khi hoá liệu pháp dự phòng có thể hữu hiệu là cần thiết.
Mục đích của nguyên cứu: Nhằm xác định những đặc tính tổ chức học của chửa trứng liên
 
quan tới sự tồn tại bệnh nguyên bào nuôi ngay sau nạo trứng, hy vọng làm giảm tỷ lệ phát triển UNBN sau nạo trứng.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment