VI PHẪU THUẬT CỘT TĨNH MẠCH TINH GIÃN HAI BÊN NGẢ BẸN BÌU Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN TỪ 2005-2009

VI PHẪU THUẬT CỘT TĨNH MẠCH TINH GIÃN HAI BÊN NGẢ BẸN BÌU Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN TỪ 2005-2009

 Mở đầu:Giãn tĩnh mạch tinh (GTMT) là tình trạng giãn lớn của các tĩnh mạch dây leo thuộc các tĩnh mạch trong thừng tinh, có thể xảy ra ở trẻ dậy thì. 

Mục tiêu:đánh giá hiệu quả của vi phẫu cột tĩnh mạch tinh giãn hai bên ngả bẹn bìu ở trẻ em. 
 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu tiền cứu mô tả lâm sàng. Đối tượng là những bệnh nhân nhi (dưới 15 tuổi) tại khoa Nam học, bệnh việnBình Dân được điều trị giãn tĩnh mạch tinh bằng viphẫu thuật cột tĩnh mạch tinh giãn hai bên ngả bẹn bìu từ tháng 2/2005 đến 12/2009. Bệnh nhân được theo dõitình trạng đau bìu, thể tích tinh hoàn sau mổ 3 tháng. 
 
Kết quả: 21 bệnh nhi đã được phẫu thuật cột tĩnh mạch tinh giãn bằng vi phẫu thuật. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 14,13 ±1,72. Lý do vào viện: 82,5% là đau bìu, 12,5% nóng ở bìu, 5% bìu to bên trái. Thể tích tinh hoàn phải là 8,86 ± 1,96cc, thể tích tinh hoàn trái8,24 ± 1,79cc. Khám lâm sàng ghi nhận GTMT trái ở 59,2% trường hợp, GTMT phải ở 12,5% trường hợp. GTMT độ 2và GTMT độ 3 là 87,5%. Siêu âm Doppler bìu: GTMT trái 79,2%, GTMT hai bên 20,8%. Quan sát khi phẫu thuật ghi nhận có hiện tượng giãn tĩnh mạch tinh hai bên ở tất cả các trường hợp. Không ghi nhận biến chứng nhiễm trùng vết mổ hay tụ máu bìu trong thời gian hậu phẫu. Theo dõi sau 3 tháng không ghi nhận biến chứng teo tinh hoàn, tràn dịch tinh mạc hay giãn tĩnh mạch tinh tái phát và tất cả bệnh nhân đều hết cảm giác đau bìu. 
 
Kết luận: Vi phẫu cột tĩnh mạch tinh giãn hai bên ngả bẹn bìutrong điều trị GTMT ở trẻ em mang lại hiệu quả tốt, không có biến chứng
 Giãn tĩnh mạch tinh (GTMT) là tình trạng bệnh lý biểu hiện giãn và xoắn thành từng đám rối của tĩnh mạch tinh trong thừng tinh(10)GTMT được đề cập đầu tiên ở lâm sàng từ thế kỷ XVI. Ambroise Paré (1500-1590)(10), nhà phẫu thuật nổi tiếng đã mô tả sự bất thường của mạch máu này do kết quả của sự ứ đọng mạch máu. Barfield, nhà phẫu thuật người Anh, là người đầu tiên gợi ý mối liên quan giữa vô sinh và GTMT ở thế kỷ XIX(10)
Năm 1977, Lipshultz và Corrier(5)gợi ý rằng GTMT thường kết hợp teo tinh hoàn từ từ theo thời gian. Năm 1987, Kass và Belman(9)lần đầu tiên chứng tỏ sự gia tăng có ý nghĩa của thể tích tinh hoàn sau khi điều trị GTMT ở thanh niên. Công trình nghiên cứu của Tổ Chức Y tế Thế Giới trên 9.000 đàn ông đã ghi nhận tình trạng giãn tĩnh mạch tinh thường đi kèm với giảm thể tích tinh hoàn, giảm chất lượng tinh trùng và giảm chức năng của tế bào Leydig(20)

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment