VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN NẶNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG II NĂM 2001-2002

VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN NẶNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG II NĂM 2001-2002

 VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN NẶNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG II NĂM 2001-2002

Phạm Thị Minh Hồng
TÓM TẮT :
Mục tiêu nghiên cứu: xác định các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng và cách điều trị bệnh viêm tiểu phế quản (VTPQ) nặng tại bệnh viện Nhi đồngII năm 2001-2002. 
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả và phân tích 51 trường hợp VTPQ nặng tại bệnh viện Nhi đồng II từ 01/03/2001 đến 28/02/2002. 
Kết quả: 51 bệnh nhi VTPQ nặng gồm 29 nam, 22 nữ, tuổi trung bình 5,3 tháng, 45% bị suy dinh dưỡng, có tiền căn sanh non 25,5%, suy hô hấp sơ sinh 13,7%, tim bẩm sinh 45%, nhiễm HIV/AIDS 25,5%, loạn sản phế quản phổi 5,9% và nhược cơ 3,9%.Thời gian nằm viện trung bình 24,5 ngày. Các biểu hiện lâm sàng gồm sốt 49%, thở nhanh 86,3%, rút lõm lồng ngực 90%, ran nổ 70,6%, suy hô hấp II-III 64,7%. Tăng bạch cầu đa nhân trung tính 47%. X quang phổi với 80,4% viêm phổi, dày thành phế quản 11,8%, ứ khí đơn thuần 7,8%, ứ khí phối hợp với tổn thương khác 51%.Nhiễm vi rút hô hấp hợp bào (RSV) 35,3%. Bệnh nhi được thở oxy 64,7% trong đó CPAP 5,9% và thở máy 19,6%. Kháng sinh được sử dụng 100%, dãn phế quản 86,3%, corticosteroid 39,2% và vật lý trị liệu hô hấp 47%. Biến chứng thường gặp nhất là bội nhiễm phổi 84,3%. Tử vong 15,7% chủ yếu là do hội chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS) và trẻ có nhiều yếu tố nguy cơ. 
Kết luận: Viêm tiểu phếquản ở trẻ có tiền căn sanh non, suy hô hấp sơ sinh, loạn sản phế quản phổi, tim bẩm sinh, nhiễm HIV/AIDS, nhược cơ thường nặng, phải nằm viện lâu ngày. Bội nhiễm phổi là biến chứng thường gặp nhất.Tử vong cao chủ yếu là do ARDS và trẻ có nhiều yếu tố nguy cơ.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment