YẾU TỐ LIÊN QUAN KHÓ TIẾP CẬN TĨNH MẠCH Ở TRẺ SƠ SINH BỆNH LÝ

YẾU TỐ LIÊN QUAN KHÓ TIẾP CẬN TĨNH MẠCH Ở TRẺ SƠ SINH BỆNH LÝ

 YẾU TỐ LIÊN QUAN KHÓ TIẾP CẬN TĨNH MẠCH Ở TRẺ SƠ SINH BỆNH LÝ

Phạm Thị Ngọc Trâm*, Võ Đức Trí*, Nguyễn Kiến Mậu*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tiếp cận tĩnh mạch ở trẻ sơ sinh đóng góp một phan rất quan trong hồi sức và điêu trị bệnh lý trẻ sơ sinh. Việc tiên đoán trước những trẻ có nguy cơ khó tiếp cận tĩnh mạch giúp cho việc tiếp cận tĩnh mạch theo chương trình, giảm đau đớn, giảm chi phí, hạn chếtai biến nhiễm trùng, tránh tình trạng không thể tiếp cận tĩnh mạch, góp phan nâng cao chất lượng chăm sóc và điêu trị bệnh lý sơ sinh.
Mục tiêu nghiên cứu: Tìm các yếu tố liên quan khó tiếp cận tĩnh mạch ở trẻ sơ sinh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng.
Kết quả nghiên cứu: Có 146 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu trong đó 46 bệnh nhân khó tiếp cận tĩnh mạch sau đó phải đặt thông tĩnh mạch trung ương. Non tháng, nhiễm trùng và các bệnh lý teo tắc ruột chiếm tỉ lệ cao can nuôi ăn tĩnh mạch kéo dài. Nhóm trẻ khó tiếp cận tĩnh mạch có cân nặng thấp hơn so nhóm trẻ không khó tiếp cận tĩnh mạch.Trong nhóm trẻkhótiếpcậntĩnh mạch,số kim tiêm sửdụngtrung bình cho một ĩântiếp
cận tĩnh mạch, tổng thời gian nuôi ăn tĩnh mạch, tổng số kim tiêm cho một đợt điêu trị cũng nhiêu hơn có ý nghĩa thống kê. Cân nặng hiện tại dưới 2500g (p=0,037) và trẻ cân nuôi ăn tĩnh mạch kéo dài trên 10 ngày (p=0,0049) tiên lượng khó tiếp cận tĩnh mạch.
Kết luận: Cân chú ý yếu tố như nhẹ cân, bệnh lý cân nuôi ăn tĩnh mạch trên 10 ngày sẽ nguy cơ khó chích tiếp cận tĩnh mạch. Ở những trẻ này, xem xét đạt thông tĩnh mạch trung ương từ ngoại biên để giảm thời gian tiếp cận tĩnh mạch cho điêu dưỡng, giảm đau đớn cho bệnh nhân, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng chăm sóc và điêu trị.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay ngày càng có nhiều trẻ sơ sinh sanh non, bệnh nặng, bệnh ngoại khoa, đa dị tật, bệnh lý về tim mạch nhập viện và điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng 1. Theo thống kê hằng năm tại khoa Sơ Sinh, số bệnh nhân nhập viện năm 2008 là 6167 bệnh nhân; năm 2009 là 7330 bệnh nhân, trong đó số lượng bệnh nhân nằm phòng cấp cứu có tiêm truyền tĩnh mạch lần lượt là 1332 trong năm 2008, 1542 bệnh nhân trong năm 2009. Trong khi đó nhiều bệnh nhân bệnh lý nặng cần dùng thuốc và dịch truyền qua đường tĩnh mạch trong thời gian dài nên việc tiếp cận và sử dụng đường truyền trên bệnh nhân là rất thường xuyên. Hiện tại việc tiếp cận tĩnh mạch mất nhiều thời gian vì khi trẻ đã được tiêm truyền nhiều việc tiếp cận tĩnh mạch ngày càng khó khăn, tĩnh mạch dễ bị hư, khi cần đường truyền tĩnh mạch lại không có, làm giảm chất lượng điều trị, gây tốn kém, tăng chi phí, ngoài ra còn gây thêm đau đớn cho bệnh nhân, tăng nguy cơ nhiêm trùng trong quá trình điều trị. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài ” Các yếu tố liên quan khó tiếp cận tĩnh mạch ở trẻ sơ sinh bệnh lý” nhằm giúp điều dưỡng có thể tiên lượng nguy cơ trẻ khó tiếp cận tĩnh mạch đê có kế hoạch khi thiết lập đường truyền nhằm hướng tới tiếp cận tĩnh mạch theo chương trình, giảm đau đớn cho bệnh nhân, nâng cao chất lượng chăm sóc.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Tìm các yếu tố liên quan khó tiếp cận tĩnh mạch ở trẻ Sơ Sinh bệnh lý
Mục tiêu chuyên biệt
Tìm các đặc điêm bệnh lý trẻ sơ sinh cần tiếp cận tĩnh mạch.
So sánh trung bình cân nặng và tuổi lúc 
nhập viện ở nhóm khó tiếp cận tĩnh mạch và chưa khó tiếp cận tĩnh mạch:
So sánh trung bình số kim tiêm ở nhóm trẻ khó tiếp cận tĩnh mạch và chưa khó tiếp cận tĩnh mạch.
Tìm yếu tố liên quan khó tiếp cận tĩnh mạch ở trẻ sơ sinh bệnh lý.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment