CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG VÀ MỔ LẠI SAU PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TRIỆT ĐỂ TỨ CHỨNG FALLOT TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG VÀ MỔ LẠI SAU PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TRIỆT ĐỂ TỨ CHỨNG FALLOT TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Lý Thịnh Trường1, Doãn Vương Anh1
1 Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Nhi Trung ương
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá, phân tích, và tìm các yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong và các yếu tố nguy cơ tiên lượng mổ lại trong theo dõi lâu dài sau phẫu thuật sửa chữa triệt để tứ chứng Fallot tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Phân tích hồi quy đa biến logistic được sử dụng nhằm đánh giá các yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong và mổ lại đối với các bệnh nhân tử vong cũng như các bệnh nhân cần mổ lại trong theo dõi lâu dài sau phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot trong thời gian từ 2006-2020 tại Bệnh viện Nhi Trung ương.Kết quả:Tổng số 532 bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật triệt để trong thời gian nghiên cứu. Có 399 bệnh nhân (75%) được bảo tồn vòng van ĐMP sau phẫu thuật sửa triệt để. Có 11 bệnh nhân (2.1%) tử vong sớm sau phẫu thuật, và 2 bệnh nhân (0.4%) tử vong muộn. Có 12 bệnh nhân (2.3%) cần mổ lại sau phẫu thuật với thời gian theo dõi trung bình sau phẫu thuật là 40.4 ± 26.27 tháng. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy thời gian thở máy kéo dài (mỗi 3 giờ thở máy kéo dài thêm sau mổ) sau phẫu thuật là yếu tố nguy cơ tiên lượng có liên quan đến tử vong của bệnh nhân (OR=1.04; p=0.001). Các bệnh nhân có chênh áp qua đường ra thất phải >50mmHg là yếu tố nguy cơ tiên lượng cần phải mổ lại sau phẫu thuật (OR=108; p=0.001). Theo dõi lâu dài sau phẫu thuật cho thấy các bệnh nhân được bảo tồn vòng van ĐMP có tỷ lệ hở van ĐMP nặng-rất nặng và tỷ lệ dày thất phải sau phẫu thuật thấp hơn rõ rệt so với nhóm bệnh nhân phải sử dụng miếng vá xuyên qua vòng van ĐMP (p=0.0001 và p=0.023). Kết luận: Cai và rút máy thở sớm sau phẫu thuật có thể giúp làm giảm tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật điều trị triệt để tứ chứng Fallot. Các bệnh nhân có chênh áp qua đường ra thất phải sau mổ >50mmHg nên được xử lý triệt để ngay trong phẫu thuật sửa toàn bộ tứ chứng Fallot nhằm làm giảm tỷ lệ mổ lại đối với bệnh tim bẩm sinh này.
Kể từ trường hợp bệnh nhân mắc tứ chứng Fallot được phẫu thuật sửa chữa toàn bộ bằng tuần hoàn chéo được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1954 bởi bác sĩ Lillehei và cộng sự, phẫu thuật tim bẩm sinh tứ chứng Fallot đã bước vào một trang lịch sử mới với kết quả ngoài sự mong đợi (1). Hiện nay tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật đã giảm xuống rất thấp đối với nhiều nghiên cứu trên thế giới, với tỷ lệ tử vong phần lớn từ 2-3% hoặc thấp hơn (2)(3)(4). Tại Việt Nam, một số nghiên cứu về phẫu thuật điều trị tứ chứng Fallotcho thấy kết quả điều trị ngắn hạn cũng như dài hạn cũng rất khả quan với tỷ lệ tử vong thấp cũng như tỷ lệ biến chứng không cao (5)(6).Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng đã chỉ ra một số yếu tố nguy cơ liên quan đến tử vong sau phẫu thuật như: sử dụng ngừng tuần hoàn, thời gian ngừng tuần hoàn kéo dài, thời gian chạy máy kéo dài, thời gian cặp ĐMC kéo dài, đóng lỗ bầu dục trong phẫu thuật, các bệnh nhân được sửa chữa tạm thời trước phẫu thuật, phẫu thuật tạo hình miếng vá đường ra thất phải không bảo tồn vòng van, các bệnh nhân có bất thường gen kèm theo, bão hoà ôxy trước mổ <90%, cân nặng thấp hơn khoảng tứ phân vị thứ 5 … (2)(4).Phần lớn các nghiên cứu trong nước không đề cập tới yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong cũng như tiên lượng mổ lại của nhóm bệnh này. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các yếu tố nguy cơ tử vong cũng như mổ lại ở các bệnh nhân được phẫu thuậttriệt để tứ chứng Fallot tại Bệnh viện Nhi Trung ương.II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUTrongthời gian từ tháng 12 năm 2006 đến tháng 12 năm 2020, các bệnh nhân được phẫu thuật sửa toàn bộ tứ chứng Fallot tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Nhi Trung ương được thu thập hồ sơ và tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Các bệnh nhân được chẩn đoán tứ chứng Fallot với thương tổn teo tịt van động mạch phổi, Fallot không van phổi,Fallot-thông sàn nhĩ thất, và Fallot kèm theo các thương tổn lớn khác trong tim không nằm trong nhóm nghiên cứu này.Các yếu tố có khả năng ảnh hưởng tới nguy cơ tử vong như: cân nặng, tuổi, kích thước vòng van ĐMP (Z-score, chỉ số McGoon, chỉ số Nakata), bệnh nhân có bất thường đường đi ĐMV, phễu thất phải thiểu sản, bệnh nhân được bảo tồn vòng van ĐMP, có tình tạng nhiễm khuẩn huyết, cung lượng tim thấp sau phẫu thuật, loạn nhịp tim, thời gian thở máy sau mổ… được tiến hành phân tích đơn biến. Các biến có p<0.2 được đưa vào mô hình hồi quy đa biến logistic. Biến có giá trị p < 0.05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Số liệu thu được từ nghiên cứu được xử lý với phần mềm SPSS 20.0. Nghiên cứu được chấp thuận của Hội đồng đạo đức Bệnh viện Nhi Trung ương và Viện Nghiên cứu sức khoẻ trẻ em
Nguồn: https://luanvanyhoc.com