Cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong đánh giá hẹp xơ vữa vôi hoá động mạch cảnh ngoài sọ

Cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong đánh giá hẹp xơ vữa vôi hoá động mạch cảnh ngoài sọ

Cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong đánh giá hẹp xơ vữa vôi hoá động mạch cảnh ngoài sọ
Phạm Hồng Đức , Nguyễn Hữu Thuyết, Đinh Trung Thành
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Sử dụng cắt lớp vi tính (CLVT) hai mức năng lượng (Dual energy Computed Tomographic: DECT) với kỹ thuật tạo ảnh xoá xơ vữa vôi hoá để đánh giá mức độ hẹp động mạch cảnh trong (Internal Carotide Artery: ICA) có so sánh với ảnh CLVT mạch máu thường qui (Computed Tomographic Angiography: CTA) trên 27 bệnh nhân với 43 động mạch cảnh trong bị hẹp. Mức độ hẹp được đánh giá theo NASCET trên cả hai kỹ thuật CTA thường qui và DECT có loại bỏ vôi hoá. Kết quả cho thấy có sự phù hợp với mức độ rất tốt giữa hai phương thức chẩn đoán này trong đánh giá mức độ hẹp ICA với hệ số Kappa = 0.812. Mức độ hẹp trung bình ICA đo trên hình ảnh CTA thông thường và DECT lần lượt là 63.3 ± 25.0% và 59.5 ± 24.4%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0.001). Như vậy, DECT loại bỏ mảng xơ vữa vôi hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá mức độ hẹp trong mọi trường hợp, như vậy nó phân loại hẹp ICA tốt hơn CTA thông thường.

Trong các bệnh lý liên quan đến tim mạch, đột quỵ chiếm tỷ lệ đáng kể và thiếu máu não là thể bệnh lý thường gặp nhất trong nhóm đột quỵ. Bệnh xơ vữa động mạch cảnh trong ngoài sọ là một nguyên nhân thường gặp gây ra đột quỵ thiếu máu não, chiếm khoảng 7-18%.1Các phương thức chẩn đoán hình ảnh được sử dụng để đánh giá hẹp động mạch cảnh ngoài sọ bao gồm: Siêu âm Doppler mạch máu, cắt lớp vi tính mạch máu (Computed Tomographic Angiography: CTA), cộng hưởng từ mạch máu (Magnetic  Resonance  Angiography:  MRA), chụp mạch số hoá xoá nền (Digital Subtraction Angiography:  DSA).  Siêu  âm  Doppler  là phương pháp rẻ tiền, dễ áp dụng và thường được sử dụng như một xét nghiệm sàng lọc để quyết định có thực hiện DSA hay không.2Tuy nhiên, DSA mặc dù là tiêu chuẩn vàng, nhưng  có  hạn  chế  là  phương  thức  xâm phạm nên không dùng thường qui tầm soát tổn thương hẹp mạch cảnh.3 Do vậy, CTA và MRA là những phương thức ngày càng được sử dụng rộng rãi, không những để đánh giá hẹp động mạch cảnh với độ chính xác cao mà còn cho những thông tin về mạch nội sọ và tình trạng quai động mạch chủ để lập kế hoạch can thiệp.2 CTA có lợi thế hơn MRA trong đánh giá đặc điểm vôi hoá của mảng xơ vữa.4 Tuy nhiên, giá trị chẩn đoán của CTA thông thường trong đánh giá mức độ hẹp có thể bị hạn chế khi xơ vữa vôi hoá do khó phân biệt lòng mạch có thuốc cản quang có cùng tỷ trọng.5 Chụp cắt lớp vi tính hai mức năng lượng  (DECT)  là  một  kỹ  thuật  mới  có  khả năng khắc phục hạn chế này. Hệ thống dùng hai nguồn phát tia X với kilovolt khác nhau. Nguyên tử khối của iốt và canxi khác nhau nên có sự suy giảm tia X khác nhau ở các mức năng lượng khác nhau, do đó kỹ thuật này có khả năng phân biệt giữa iốt cản quang .

 

Cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong đánh giá hẹp xơ vữa vôi hoá động mạch cảnh ngoài sọ

Leave a Comment