Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị nhiễm trùng đường mật do sỏi ống mật chủ bằng phương pháp nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP)

Luận văn thạc sĩ Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị nhiễm trùng đường mật do sỏi ống mật chủ bằng phương pháp nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP)

Title:  Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị nhiễm trùng đường mật do sỏi ống mật chủ bằng phương pháp nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP)
Authors:  Nguyễn, Văn Thưởng
Advisor:  Nguyễn, Trường Sơn
Đào, Việt Hằng
Keywords:  nhiễm trùng đường mật;ERCP
Issue Date:  7/11/2025
Abstract:  Nhiễm trùng đường mật là một tình trạng nhiễm khuẩn cấp tính hoặc mãn tính của hệ thống đường dẫn mật, thường xảy ra khi có tình trạng tắc nghẽn. Đây là một bệnh lý phổ biến và nghiêm trọng với tỷ lệ mắc ước tính khoảng 200.000 trường hợp mỗi năm tại Hoa Kỳ. Nguyên nhân nhiễm trùng đường mật cấp tính hay gặp là sỏi mật, có thể chiếm tới 85,2% trong tổng số các trường hợp. Sỏi ống mật chủ gây tắc nghẽn cơ học tại đường mật, dẫn đến các triệu chứng lâm sàng: đau tức hạ sườn phải, sốt, vàng da và một số bệnh nhân có thể biểu hiện tụt huyết áp, rối loạn tri giác. Tắc mật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển, làm thay đổi các chỉ số xét nghiệm: tăng bạch cầu, CRP, tăng bilirubin máu và men gan. Nhiễm trùng đường mật do sỏi nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời có thể tiến triển nhanh tới sốc nhiễm trùng, viêm phúc mạc, suy đa tạng và gây tử vong.
Một trong những nguyên tắc điều trị chính trong nhiễm trùng đường mật do sỏi là dẫn lưu giảm áp đường mật. Trong số các phương pháp hiện nay, nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP: Endoscopic Retrograde Cholangiopancreatography) được xem là lựa chọn ưu tiên vì vừa có giá trị chẩn đoán (xác định vị trí, kích thước sỏi, hẹp đường mật), vừa đóng vai trò điều trị (lấy sỏi, đặt stent dẫn lưu). Ưu điểm của ERCP là thực hiện qua đường tiêu hóa tự nhiên, ít xâm lấn, giúp bệnh nhân phục hồi nhanh, rút ngắn thời gian nằm viện và giảm nguy cơ tái phát. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn có thể gặp biến chứng như viêm tụy sau nội soi, chảy máu hoặc thủng tá tràng, đồng thời đòi hỏi bác sĩ thực hiện phải có chuyên môn cao và trang thiết bị hiện đại.
Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về nhiễm trùng đường mật. Nghiên cứu của Quế Anh Trâm (2023) tiến hành trên 115 bệnh nhân nhiễm trùng đường mật cho kết quả nguyên nhân thường gặp sỏi mật chiếm 85,2%, u đường mật chiếm 7,8%, vi khuẩn hay gặp Ecoli (38,9%), Enterococcus (26,7%). Nghiên cứu của Hà Minh Trang (2023) bước đầu phân tích đặc điểm vi khuẩn học trong dịch mật ở 93 bệnh nhân nhiễm trùng đường mật cấp được can thiệp bằng ERCP kết quả vi khuẩn Gram âm chiếm 86,4%, E.coli thường gặp nhất chiếm 53,8%, theo sau là Klebsiella spp chiếm 10,8% và Enterococcus spp là 11,8%. Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu mô tả triệu chứng ban đầu, chưa đi sâu phân tích mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mức độ nặng của bệnh. Các báo cáo về kết quả điều trị sỏi ống mật chủ bằng ERCP còn khác khau tùy theo các nghiên cứu. Hơn nữa, đây là kỹ thuật khó, bác sĩ can thiệp cần tích lũy kinh nghiệm, kết quả điều trị của mỗi trung tâm cũng có thể khác nhau theo từng thời điểm. Vì vậy để góp phần bổ sung thêm thông tin chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị nhiễm trùng đường mật do sỏi ống mật chủ bằng phương pháp nội soi mật tụy ngược dòng” với 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm trùng đường mật do sỏi ống mật chủ tại trung tâm Tiêu hóa- Gan mật bệnh viện Bạch Mai năm 2024- 2025.
2. Đánh giá kết quả điều trị của nhiễm trùng đường mật do sỏi ống mật chủ bằng nội soi mật tụy ngược dòng.
URI: 
Appears in Collections: Luận văn thạc sĩ

Chuyên mục: luận văn thạc sĩ y học

Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn

Leave a Comment