ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐA KÝ HÔ HẤP Ở NGƯỜI BỆNH CÓ NGUY CƠ CAO MẮC HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦ

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐA KÝ HÔ HẤP Ở NGƯỜI BỆNH CÓ NGUY CƠ CAO MẮC HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦ [Luận văn bác sĩ nội trú]

Title:  ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐA KÝ HÔ HẤP Ở NGƯỜI BỆNH CÓ NGUY CƠ CAO MẮC HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ TẮC NGHẼN KHI NGỦ
Authors:  Trần, Hoàng Hà
Advisor:  Nguyễn, Huy Bình
Nguyễn, Minh Sang
Keywords:  đặc điểm lâm sàng;đa ký hô hấp;nguy cơ cao;ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ
Issue Date:  10/10/2025
Abstract:  Mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng trong các bảng câu hỏi Berlin, STOP-Bang, Epworth và kết quả đa ký hô hấp ở người bệnh có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ tại Bệnh viện Phổi Trung Ương
2. Nhận xét mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng trong các bảng câu hỏi với kết quả đa ký hô hấp ở nhóm đối tượng trên và giá trị sàng lọc của các bảng câu hỏi
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 80 bệnh nhân đến khám và điều trị tại Khoa Y học giấc ngủ và bệnh lý hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung Ương từ tháng 09 năm 2023 đến tháng 01 năm 2025 có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ. Kết quả: – Số lượng bệnh nhân nam giới chiếm 68,75%. Tuổi trung bình là 57,0. BMI trung bình là 23,80. Có 55,0% bệnh nhân có tình trạng thừa cân – béo phì.
– Tỉ lệ bệnh nhân có ngưng thở khi ngủ trong nghiên cứu là 90,0%.
– Có 31,25% bệnh nhân có tình trạng buồn ngủ quá mức ban ngày theo thang điểm Epworth.
– Tất cả các bệnh nhân ngủ ngáy to đều có ngưng thở khi ngủ (100%), trong đó 86,2% là ngưng thở mức độ trung bình – nặng.
– Điểm Berlin trung bình là 1,5. Có 43,75% bệnh nhân được phân loại có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ.
– Điểm STOP-Bang phân bố từ 2 đến 7, trung bình là 3,3. Số lượng bệnh nhân được phân loại có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ chiếm 65,0%. Kết luận: – Tỉ lệ bệnh nhân nam mắc ngưng thở khi ngủ cao hơn bệnh nhân nữ ở cả mức độ nhẹ (nam 77,8%, nữ 22,2%), trung bình (nam 64,0%, nữ 36,0%) và nặng (nam 72,4%, nữ 27,6%).
– Chênh lệch AHI trung bình giữa các nhóm tuổi là không nhiều
– Có mối tương quan thuận giữa BMI và AHI, nhưng mối liên hệ yếu (R² = 0,1393). BMI cao có xu hướng làm tăng nguy cơ ngưng thở khi ngủ.
– Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị chẩn đoán dương tính, giá trị chẩn đoán âm tính của bảng câu hỏi Berlin lần lượt là 44,4%, 62,5%, 91,4%, 11,1%.
– Độ nhạy của bảng câu hỏi STOP-Bang là 66,7%, còn độ đặc hiệu là 50,0%. Nhóm bệnh nhân nguy cơ cao theo bảng câu hỏi STOP-Bang có nguy cơ ngưng thở khi ngủ mức độ trung bình – nặng cao gấp 3,3 lần nhóm nguy cơ thấp.
– Các bệnh nhân có buồn ngủ quá mức ban ngày theo thang điểm Epworth có chỉ số AHI trung bình cao hơn so với nhóm không buồn ngủ quá mức ban ngày (31,1  21,8 so với 23,3  15,5, p = 0,070). ESS không bằng về độ nhạy và độ đặc hiệu so 2 công cụ trên, giá trị chẩn đoán dương tính cũng chưa đến 90,0%.
URI: 
Appears in Collections: Luận văn bác sĩ nội trú

Chuyên mục: Luận văn bác sĩ nội trú

Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn

Leave a Comment