Đặc điểm lâm sàng và gia tốc kế kết hợp điện cơ bề mặt ở người bệnh run vô căn [Luận văn bác sĩ nội trú]
| Title: | Đặc điểm lâm sàng và gia tốc kế kết hợp điện cơ bề mặt ở người bệnh run vô căn |
| Authors: | Ngô, Hà Trang |
| Advisor: | Lê, Đình Tùng |
| Keywords: | run vô căn, gia tốc kế, điện cơ bề mặt |
| Issue Date: | 2025 |
| Abstract: | Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và các chỉ số thu được bằng phương pháp gia tốc kế kết hợp điện cơ bề mặt (sEMG) ở người bệnh run vô căn, đồng thời phân tích mối liên quan giữa một số yếu tố lâm sàng với kết quả đo.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh được thực hiện trên các bệnh nhân được chẩn đoán run vô căn đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Mỗi người bệnh được khảo sát lâm sàng và đo run bằng gia tốc kế ba trục kết hợp điện cơ bề mặt ở cơ gấp và duỗi cổ tay trụ trong bốn trạng thái: nghỉ, duy trì tư thế, nâng vật nặng 500 gam và 1000 gam. Các thông số được phân tích gồm tần số đỉnh, biên độ run, biên độ và tần số cơ đồng vận – đối vận, thời khoảng khúm co cơ và mức độ phối hợp cơ. Kết quả: Nghiên cứu được thực hiện trên nhóm bệnh nhân run vô căn có tuổi trung bình là 36 tuổi, gặp ở cả hai giới. Run chủ yếu xuất hiện khi vận động hoặc duy trì tư thế (87,3%), hiếm gặp khi nghỉ (12,7%). Rượu được ghi nhận làm giảm triệu chứng ở một số trường hợp.Trên gia tốc kế, tần số đỉnh trung bình của run dao động 8,1–8,3 Hz, biên độ trung bình 53–55 µV; trên điện cơ bề mặt, biên độ trung bình 28,5–38,6 µV, cao hơn ở cơ đối vận. Biên độ tăng dần khi nâng tải trọng, cao nhất với vật nặng 1000 g. Mô hình co cơ đồng thời giữa cơ đồng vận và đối vận chiếm tỷ lệ 65,1%, trong khi mô hình luân phiên chiếm 34,9%. Thời khoảng khúm co cơ trung bình 78–81 ms ở cơ đồng vận và 116–124 ms ở cơ đối vận; khoảng cách giữa các khúm co cơ 121–128 ms, tương ứng tần số run khoảng 8 Hz. Tâm phổ và độ phân tán phổ hẹp (0,31–0,33 Hz), phản ánh tính ổn định của dao động. Phân tích tương quan cho thấy tuổi giảm liên quan rõ rệt đến tần số run, trong khi BMI và thời gian mắc bệnh không ảnh hưởng đáng kể, chỉ có xu hướng làm biên độ co cơ tăng nhẹ, đặc biệt ở cơ đồng vận. Không ghi nhận mối liên quan có ý nghĩa giữa các yếu tố này với kiểu co cơ hay phổ run. Kết luận: Run vô căn thường gặp ở người trẻ và trung niên, biểu hiện chủ yếu khi vận động, với tần số trung bình khoảng 8 Hz và mô hình co cơ đồng thời giữa cơ đồng vận – đối vận. Biên độ run tăng theo mức gắng sức, ổn định về tần số và phổ. Tuổi có mối tương quan nghịch với tần số run, trong khi BMI và thời gian mắc bệnh có xu hướng làm tăng biên độ. Phương pháp gia tốc kế kết hợp điện cơ bề mặt giúp định lượng khách quan đặc điểm run vô căn, góp phần hỗ trợ chẩn đoán phân biệt và theo dõi tiến triển bệnh trong thực hành lâm sàng. |
| URI: | |
| Appears in Collections: | Luận văn bác sĩ nội trú |
Chuyên mục: Luận văn bác sĩ nội trú
Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn