ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN CHÚ Ý, TRÍ NHỚ VÀ NHẬN THỨC Ở BỆNH NHÂN TÂM THẦN PHÂN LIỆT THỂ PARANOID

ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN CHÚ Ý, TRÍ NHỚ VÀ NHẬN THỨC Ở BỆNH NHÂN TÂM THẦN PHÂN LIỆT THỂ PARANOID

ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN CHÚ Ý, TRÍ NHỚ VÀ NHẬN THỨC Ở BỆNH NHÂN TÂM THẦN PHÂN LIỆT THỂ PARANOID
Đinh Việt Hùng1
1 Bệnh viện Quân y 103-Học viện Quân y
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Tìm hiểu đặc điểm rối loạn chú ý, trí nhớ và nhận thức ở bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paranoid. Phương pháp nghiên cứu: Phân tích về rối loạn chú ý, trí nhớ và nhận thức ở 82 bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paranoid được điều trị tại Khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103. Kết quả nghiên cứu: Rối loạn chú ý thể hiện rõ là di chuyển chú ý (63,41%) và rối loạn tập trung chú ý (40,24%). Còn rối loạn trí nhớ thì trí nhớ bằng hình ảnh và trí nhớ xa là gặp nhiều nhất lần lượt là 48,78% và 46,34%. Chức năng điều hành của bệnh nhân rối loạn rõ rệt ở tư duy trừu tượng (82,93%), giải quyết công việc (68,29%). Tái hòa nhập cộng đồng ở bệnh nhân cũng được thể hiện ở các khía cạnh bị rối loạn nhận thức với trung bình khía cạnh bị rối loạn là 7,71±3,27. Kết luận: Rối loạn chú ý, trí nhớ và nhận thức ở bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paranoid rất đa dạng và phong phú. Đây chính là nguyên nhân chính của mất dần khả năng lao động ở bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paranoid.

Tâm thần phân liệt (TTPL) là một nhóm bệnh loạn thần nặng, với đặc trưng là các triệu chứng loạn  thần  như  hoang  tưởng, ảo  giác,  căng trương  lực,  hành  vi  thanh  xuân  và  ngôn  ngữthanh  xuân.  Các  triệu  chứng  của TTPLrất  đa dạng, phong phú và luôn thay đổi theo thời gian, trong  đó  TTPL  thểparanoid  là  hay  gặp  nhất. Trên thế giới có hàng chục triệu người bị TTPL, chiếm khoảng 1% dân số thế giới và hàng năm tăng thêm 0,15% dân số. Tỷ lệ mắc bệnh này ở Việt Nam là 0,3-0,8% và hàng năm tăng thêm 0,1-0,15% dân số. Các triệu chứng của bệnh rất đa  dạngvà  phong  phú,  nhưng  tác  động  của bệnh  là  rất  nghiêm  trọng  và  kéo  dài.  Bệnh thường bắt đầu ở độ tuổi 20-30 và sẽ kéo dài suốt  đời.  Các  bệnh  nhân  này  sẽ  mất  dần  khả năng lao động, sinh hoạt và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.Nguyên nhân chính của vấn đề này là do sự suy giảm nhận thức, chú ý và trí nhớ ở bệnh nhân. Những năm gần đây các nghiên cứu chủ yếu tập chung vào cơ chế bệnh sinh và triệu chứng lâm sàng điển hình của TTPL thể  paranoid  chứ  chưa  trú  trọng  đến  vấn  đề nhận thức, trí nhớ và chú ý ở bệnh nhân. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đặc điểm rối loạn chú ý, trí nhớ và nhận thức ở bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paranoid.II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU2.1.  Đối  tượng  nghiên  cứu. Đối  tượng nghiên cứu gồm 82 bệnh nhân đáp ứng đầy đủ tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  TTPL  thể  paranoid  theo ICD-10 điều trị nội trú tại Khoa Tâm thần-Bệnh viện  Quân  y  103  từ  tháng  8/2020  đến  tháng 4/2021. 2.2. Phương pháp nghiên cứu. Sử  dụng phương  pháp  nghiên  cứu  hồi  cứu  mô  tả  cắt ngang, phân tích đánh giá từng trường hợp cụ thể. Các  triệu  chứng  lâm  sàng  được  đánh  giá trong ngày đầu  bệnh  nhân  vào  viện,  việc đánh giá được tiến hành độc lập bởi hai bác sĩ chuyên nghành tâm thần

Chi tiết bài viết
Từ khóa
Rối loạn chú ý, trí nhớ, tư duy, tâm thần phân liệt thể paranoid

Tài liệu tham khảo
1. Phạm Văn Mạnh (2008), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paranoid và kết quả điều trị bằng Chlorpromazine, Haloperidol”, Luận văn tiến sỹ y học, Học viện Quân y, Hà Nội. 
2. Bùi Quang Huy, Đinh Việt Hùng, Phùng Thanh Hải (2016), “Tâm thần phân liệt”, Tâm thần phân liệt nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị, NXB Y học, Hà Nội, 7-118. 
3. Nguyễn Thanh Bình (2010), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả nồng độ Dopamin huyết thanh ở bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paronoid”, Luận văn tiến sỹ y học, Học viện Quân y, Hà Nội. 
4. Đinh Việt Hùng (2020), “Nghiên cứu đặc điểm điện não đồ và một số đa hình trên gen COMT, ZNF804A ở bệnh nhân tâm thần phân liệt”, Luận văn tiến sỹ y học, Học viện Quân y, Hà Nội. 
5. Fisekovic S., Memic A. and Pasalic A. (2012), “Correlation between moca and mmse for the assessment of cognition in schizophrenia”, Acta Inform Med; 20(3): 186-189. 
6. Berna F., Potheegadoo J., Allé M.C. et al. (2017), “Autobiographical memory and self-disorders in schizophrenia”, Encephale; 43(1): 47-54. 
7. Mak M., Tyburski E., Starkowska A., et al. (2019), “The efficacy of computer-based cognitive training for executive dysfunction in schizophrenia”, Psychiatry Res; 279: 62-70. 
8. Bora E. (2016), “Differences in cognitive impairment between schizophrenia and bipolar disorder: Considering the role of heterogeneity”, Psychiatry Clin Neurosci; 70(10): 424-433. 

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment