ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SINH HOẠT NÔNG THÔN TẠI CÁC TRẠM CẤP NƯỚC TẬP TRUNG TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2015-2019 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SINH HOẠT NÔNG THÔN TẠI CÁC TRẠM CẤP NƯỚC TẬP TRUNG TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2015-2019 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
Học viên: Đặng Thị Phương Thảo
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Thanh Hương
Đặt vấn đề: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mô tả thực trạng chất lượng nước SHNT tại các TCN tập trung tỉnh Bến Tre giai đoạn 2015-2019 và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước của người dân Bến Tre đang sử dụng, góp phần bảo vệ sức khỏe nhân dân. Trong đó, phần các yếu tố ảnh hưởng, nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các yếu tố công tác quản lý chất lượng nước của cơ sở cấp nước và công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nước.
Phương pháp: Thực hiện hồi cứu 450 phiếu kết quả kiểm nghiệm mẫu nước của 45 TCN qua các đợt giám sát chất lượng nước của TT. KSBT Bến Tre tại các TCN SHNT giai đoạn 2015-2019. Thực hiện phỏng vấn sâu 04 người chủ cơ sở hoặc người vận hành/ quản lý trạm cấp nước, 01 người là đại diện của Trung tâm NS&VSMTNT, 01 người là lãnh đạo khoa Sức khỏe môi trường – Y tế trường học để tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước mà trong phạm vi nghiên cứu này là phân tích công tác quản lý chất lượng nước của cơ sở cấp nước và công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nước. Nhập số liệu bằng phần mềm EpiData 4.6. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ các TCN có các chỉ tiêu về lý hóa và vi sinh đạt chất lượng theo QCVN 02:2009/BYT trong giai đoạn 2015-2019 lần lượt: năm 2015 là 33,3%; năm 2016 là 13,3%; năm 2017 là 37,8%; năm 2018 là 6,7% và năm 2019 là 24,4%.
Công tác quản lý chất lượng nước có 62,2% TCN thực hiện việc lưu trữ và quản lý hồ sơ theo dõi đầy đủ theo quy định, 80% TCN thực hiện lấy mẫu kiểm nghiệm các thông số chất lượng nước, 60% TCN thực hiện chế độ báo cáo kết quả nội kiểm theo quy định. Công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nước có 100% TCN được thực hiện ngoại kiểm.
Kết luận: Trong giai đoạn năm 2015-2019, tỷ lệ các trạm cấp nước sinh hoạt nông thôn tỉnh Bến Tre đạt chất lượng về các chỉ tiêu hóa học chiếm tỷ lệ thấp nhất, tỷ lệ đạt đều dưới 50%. Công tác quản lý chất lượng nước của các cơ sở cấp nước thuộc Trung tâm NS&VSMTNT thực hiện tương đối đầy đủ theo quy định. Đối với một số các cơ sở cấp nước tư nhân, trong công tác này còn nhiều hạn chế như thực hiện chế độ lấy mẫu nội kiểm và chế độ thông tin, báo cáo chưa đầy đủ. Công tác kiểm tra, giám sát chất lượng nước được thực hiện theo quy định.
Khuyến nghị: Các cơ sở cấp nước thuộc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn cần đầu tư kinh phí, cần thiết có thể xã hội hóa để sửa chữa, nâng cấp hoặc xây dựng mới hệ thống xử lý nhằm nâng cao chất lượng nước. Trung tâm Kiểm soát bệnh tật cần có các biện pháp xử lý đối với các cở sở cấp nước thường xuyên không tuân thủ các quy định về quản lý chất lượng nước. Các cơ quan chức năng cần có những biện pháp nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là tình hình xâm nhập mặn để đảm bảo chất lượng nguồn nước cấp cho người dân
Nguồn: https://luanvanyhoc.com