Luận văn thạc sĩ Đánh giá độc tính và tác dụng dược lý của viên nang cứng “Kiện vị bổ trung HĐ” trên thực nghiệm
| Title: | Đánh giá độc tính và tác dụng dược lý của viên nang cứng “Kiện vị bổ trung HĐ” trên thực nghiệm |
| Authors: | Trần, Thị Thu Thảo |
| Advisor: | Nguyễn, Văn Phúc Nguyễn, Thị Thanh Tú |
| Keywords: | Viên nang cứng “Kiện vị bổ trung HĐ”;Hội chứng ruột kích thích |
| Issue Date: | 2025 |
| Abstract: | Hội chứng ruột kích thích là một hội chứng thường gặp của đường tiêu hóa, Bệnh phổ biến toàn cầu (11,2%) và có xu hướng gia tăng ở châu Á. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh và tạo ra chi phí y tế đáng kể. HCRKT gồm 4 thể (thể lỏng, táo bón, hỗn hợp và thể không đặc trưng). Tại Việt Nam, thể lỏng phổ biến nhất (30-60 %). Thuốc cổ truyền là phương pháp điều trị lâu đời, vẫn được ứng dụng hiệu quả trong lâm sàng hiện nay. Nhờ tiến bộ công nghệ, nhiều bài thuốc được cải tiến dưới dạng bào chế hiện đại như viên nang, siro, giúp tăng hiệu quả và thuận tiện cho người bệnh. Bệnh viện YHCT Hà Đông đã sử dụng bài “Kiện vị bổ trung” dạng viên hoàn cứng trong điều trị các triệu chứng tương đồng với HCRKT thể lỏng. Nghiên cứu năm 2022 cho thấy bài thuốc có hiệu quả. Để hiện đại hóa, thuốc được phát triển thành dạng viên nang cứng “Kiện vị bổ trung HĐ” và cần đánh giá dược lý, độc tính trên động vật trước khi thử nghiệm lâm sàng. Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá độc tính và tác dụng dược lý của viên nang cứng “Kiện vị bổ trung HĐ” trên thực nghiệm” Kết quả nghiên cứu Độc tính cấp và bán trường diễn: Viên nang cứng “Kiện vị bổ trung HĐ” không gây độc tính cấp và bán trường diễn trên chuột. Liều 25 g/kg qua đường uống không gây biểu hiện độc cấp tính; LD₅₀ chưa xác định. Ở liều tương đương và gấp ba liều lâm sàng dùng liên tục 90 ngày, không ghi nhận thay đổi bất thường về thể trạng, huyết học, chức năng gan, thận hay mô học (p > 0,05). Tác dụng dược lý: thuốc cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc điều hòa hoạt động của hệ tiêu hóa. – Trên mô hình ruột thỏ cô lập, các nồng độ từ 0,1% đến 0,2% làm giảm đáng kể tần số và biên độ co bóp của ruột (p < 0,001), thể hiện tác dụng ức chế nhu động ruột. – Trên chuột nhắt trắng, thuốc ở liều 0,72 g/kg/ngày và 1,44 g/kg/ngày làm giảm rõ rệt vận chuyển than hoạt trong lòng ruột (p < 0,05–0,001), chứng minh tác dụng làm chậm nhu động ruột. – Thử nghiệm trên ruột ếch cô lập cho thấy nồng độ 0,2% làm giảm thể tích dịch trong lòng ruột và tăng đáng kể nồng độ clo, chứng tỏ khả năng tăng tái hấp thu nước và điện giải (p < 0,01). – Đặc biệt, trên mô hình chuột cống trắng gây HCRKT thể lỏng bằng phương pháp kết hợp tách mẹ sơ sinh và stress do hạn chế vận động, thuốc ở liều 0,36 g/kg/ngày và 0,72 g/kg/ngày giúp làm giảm tần suất đại tiện, lượng nước trong phân, nhu động ruột, phản xạ co thắt bụng (p < 0,05), đồng thời cải thiện tổn thương vi thể tại đại tràng so với lô mô hình không điều trị. Những kết quả này khẳng định tiềm năng ứng dụng của viên nang cứng “Kiện vị bổ trung HĐ” trong điều trị hội chứng ruột kích thích thể lỏng, đồng thời góp phần hiện đại hóa và chuẩn hóa các chế phẩm từ y học cổ truyền. |
| URI: | |
| Appears in Collections: | Luận văn thạc sĩ |
Chuyên mục: luận văn thạc sĩ y học
Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn