ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ CÓ BORTEZOMIB TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚC ĐẦU ĐA U TỦY XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN K

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ CÓ BORTEZOMIB TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚC ĐẦU ĐA U TỦY XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN K

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ CÓ BORTEZOMIB TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚC ĐẦU ĐA U TỦY XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN K
Nguyễn Tiến Quang1, Đỗ Huyền Nga1, Nguyễn Thanh Tùng1
1 Bệnh viện K
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của phác đồ có bortezomib trong điều trị bước đầu đa u tủy xương tại bệnh viện K. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả tiến hành trên 44 bệnh nhân được chẩn đoán xác định đa u tủy xương điều trị hóa chất phác đồ có bortezomib tại Bệnh viện K từ 05/2019 đến 10/2021. Kết quả: Độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 59 tuổi, tỉ lệ nam/nữ: 1,1. Đa số bệnh nhân vào viện vì đau xương 91%. Hầu hết các bệnh nhân có nhiều tổn thương 88,6%. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là xương cột sống thắt lưng 75%. Thể bệnh hay gặp nhất là IgG Kappa 38,6%, IgG Lambda 18,2%. Phác đồ VRD và VTD có tỉ lệ kiểm soát bệnh cao 100% và 96,6% trong khi phác đồ VCD chỉ đạt 60%. Độc tính hay gặp là độc tính thần kinh ngoại vi ở nhóm điều trị phác đồ VTD 27,6%, nhóm điều trị phác đồ VTD hay gặp độc tính hạ bạch cầu 40% và độc tính trên da 30%. Kết luận: Điều trị đa u tủy xương bằng phác đồ 3 thuốc có bortezomib cho tỉ lệ đáp ứng và độ an toàn cao.

Đa u  tủy  xương  (Multiple  Myeloma -MM) thường được đặc trưng bởi sự tăng sinh của các tế  bào  plasma  tạo  ra  globulin  miễn  dịch  đơn dòng.  Các  tế  bào  plasma  tăng  sinh  trong  tủy xương có thể dẫn đến phá hủy xương trên diện rộng với các tổn thương tiêu xương, thiểu xương và gãy xương bệnh lý1. MM  là  một  bệnh  ung  thư  không  phổ  biến, chiếm khoảng 1 đến 2 phần trăm tổng số các bệnh ung thư và hơn 17 phần trăm các bệnh ác tính huyết học. MM phổ biến hơn ở nam giới hơn phụ nữ (tỉ lệ nam:nữ 1,4: 1) và thường gặp hơn ở  những  người  Mỹ  gốc  Phi; tỉ  lệ  mắc  thấp  ở người  châu  Á.  Trên  toàn  thế  giới,  có  khoảng 160.000 trường hợp mắc và 106.000 trường hợp tử  vong  mỗi  năm  do  MM.  Tuổi  trung  bình  khi chẩn đoán là 65 đến 74 tuổi; chỉ 10 phần trăm bệnh nhân dưới 50 và và 2 phần trăm bệnh nhân dưới 40 tuổi. Nguy cơ mắc MM tăng theo chỉ số khối cơ thể .

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ CÓ BORTEZOMIB TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚC ĐẦU ĐA U TỦY XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN K

Leave a Comment