Đánh giá kết quả của kĩ thuật nút mạch trước đình chỉ thai tại vị trí sẹo mổ cũ [Luận văn bác sĩ nội trú]
| Title: | Đánh giá kết quả của kĩ thuật nút mạch trước đình chỉ thai tại vị trí sẹo mổ cũ |
| Authors: | Nguyễn, Đức Sơn |
| Advisor: | Lê, Thanh Dũng Nguyễn, Thái Bình |
| Keywords: | Thai tại vị trí sẹo mổ cũ, chửa vết mổ, động mạch tử cung, nút mạch, |
| Issue Date: | 2025 |
| Abstract: | Đặt vấn đề: Thai tại vị trí sẹo mổ cũ (CSP) là một tình trạng sản khoa nguy hiểm, có xu hướng gia tăng cùng với tỷ lệ mổ lấy thai. Tình trạng này có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như vỡ tử cung và băng huyết, đe dọa tính mạng và khả năng sinh sản của người phụ nữ. Hiện nay, chưa có một phác đồ điều trị thống nhất trên toàn thế giới. Kỹ thuật nút động mạch tử cung (UAE) trước khi đình chỉ thai đã nổi lên như một phương pháp an toàn và hiệu quả để giảm thiểu nguy cơ chảy máu. Gần đây, một hệ thống phân độ cấp máu trên hình ảnh chụp mạch (DSA) đã được đề xuất nhưng chưa được kiểm chứng rộng rãi. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của phác đồ phối hợp UAE và đình chỉ thai, đồng thời xác định các yếu tố tiên lượng nguy cơ như phân độ trên DSA và chiều dày lớp cơ tử cung tại vị trí sẹo mổ (RMT). Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, hình ảnh chụp mạch máu của khối thai tại vị trí sẹo mổ cũ tại bệnh viện Việt Đức năm 2023-2025. Đánh giá kết quả của phương pháp nút mạch trước đình chỉ thai tại vị trí sẹo mổ cũ. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 52 bệnh nhân được chẩn đoán CSP tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương và được can thiệp UAE tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 3/2023 đến tháng 1/2025. Tất cả bệnh nhân sau đó được đình chỉ thai bằng phương pháp nạo hút. Các dữ liệu về lâm sàng, siêu âm (đặc biệt là RMT), và hình ảnh chụp mạch (phân độ cấp máu theo Feng Gao) được thu thập và phân tích thống kê. Kết quả: Nghiên cứu trên 52 bệnh nhân (tuổi trung bình là 35.6 +/- 5.0). 53.9% không có triệu chứng lâm sàng tại thời điểm chẩn đoán. Tuổi thai trung bình là 7.5 +/- 1.3 tuần. RMT trung bình là 2.2 +/- 0.9 mm. Tỷ lệ thành công về mặt kỹ thuật và về mặt lâm sàng là 100%. 40.4% bệnh nhân (21/52) cần đặt bóng chèn tử cung để kiểm soát chảy máu sau nạo hút. Phân độ cấp máu trên DSA: Bệnh nhân thuộc độ III (cấp máu nhiều) có tỉ lệ cần đặt bóng chèn tử cung cao (90.0%), thời gian nằm viện và thời gian chảy máu sau nạo hút cũng kéo dài hơn đáng kể so với nhóm độ I và II (p<0.01). RMT mỏng hơn có liên quan có tỉ lệ đặt bóng chèn tử cung cao hơn với ngưỡng cut-off là 2.05 mm (p < 0.05). Kết luận: Phác đồ phối hợp nút mạch và nạo hút thai là một chiến lược an toàn và hiệu quả cao trong quản lý CSP. Nghiên cứu đã xác thực thành công giá trị của hai công cụ tiên lượng quan trọng: phân độ cấp máu trên DSA và chiều dày RMT trên siêu âm. Việc xác định bệnh nhân thuộc nhóm DSA độ III hoặc có RMT < 2.05 mm có tỉ lệ cần đặt bóng chèn tử cung sau khi nạo hút thai cao, các bác sĩ can thiệp chẩn đoán hình ảnh nên phân loại cấp máu khối CSP trên report để các bác sĩ sản khoa có thái độ xử trí tích cực hơn với các bệnh nhân có khối CSP giàu mạch trên DSA. |
| URI: | |
| Appears in Collections: | Luận văn bác sĩ nội trú |
Chuyên mục: Luận văn bác sĩ nội trú
Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn