ĐIỀU TRỊ VIÊM HUYỆT Ổ RĂNG KHÔ BẰNG FIBRIN GIÀU TIỂU CẦU: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG

ĐIỀU TRỊ VIÊM HUYỆT Ổ RĂNG KHÔ BẰNG FIBRIN GIÀU TIỂU CẦU: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG

ĐIỀU TRỊ VIÊM HUYỆT Ổ RĂNG KHÔ BẰNG FIBRIN GIÀU TIỂU CẦU: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Phạm Như Hải1
1 Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà nội
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Viêm huyệt ổ răng khô là một trong những biến chứng chưa rõ nguyên nhân có thể xảy ra sau khi nhổ răng, gây ra những cơn đau dữ dội mà chưa có 1 phương pháp điều trị hệu quả. Huyết tương giàu tiểu cầu đã được báo cáo trong điều trị viêm huyệt ổ răng khô, báo cáo trường hợp điều trị viêm huyệt ổ răng khô của chúng tôi cho thấy hiệu quả của huyết tương giàu tiểu cầu cho điều trị viêm huyệt răng khô cho bệnh nhân Việt Nam.

Viêm huyệt ổ răng khô (Alveolarosteitis: AO), được Crawford mô tả đầu tiên vào năm 1896, là một trong những biến chứng có thể xảy ra sau khi nhổ răng, làhiện tượngtan một phần hoặc toàn bộ cục máu đông làmbộc lộcác thành huyệt ổ răng, kết hợp với các cơn đau cấp tính và dữ dội, mà không có bất kỳ dấu hiệu nào của viêm hoặc  nhiễm  trùng,  có  thể  có  hoặc  không  hôi miệng [1].  Tỷ  lệ  mắc  viêm  huyệt  ổ  răng  khô được ước tính là từ 4,6 đến 30% hay xảy ra sau khi nhổrăng khôn hàm dưới [2]. Bệnh nguyên của AO vẫn chưa được hiểu rõ tuy  nhiên  các  yếu  tố  liên  quan  được  báo  cáo như: tuổi tác, giới tính, thói quen hút thuốc, sử dụng  thuốc  tránh  thai,  chấn  thương  do  phẫu thuật nhổ răng hoặc nhiễm trùng trước đó[3-5]. Ngoài ra, hệ vi sinh vật miệng của bệnh nhân có lẽ  đóng  một  vai  trò  quan  trọng  trong  cơ  chế bệnh sinh của bệnh lý này [6,  7]. Mặc dù căn nguyên cơ bản vẫn chưa rõ ràng, nhưng AO có liên quan đến sự thay đổi trong quá trình hình thành  cụcmáu đông. Theo Birn [8],  trong  các huyệt ổ răng viêm khô có tăng hoạt động tiêu sợi huyết  và  hoạt  hóa  plasminogen  trong  plasmin dẫn đến tan sớm cục máu đông, làm cho thành xương  của  huyệt  ổ  răng  tiếp  xúc  trực  tiếp  với khoang miệng.Huyết  tương  giàu  tiểu  cầu  tự thân (Autogenous Platelet Concentrates: APC) là sản phẩm có nguồn gốc từ máu có chứa fibrin được sử  dụng  rộng  rãi  trong  phẫu  thuật  răng  hàm mặt. APC được điều chế từ máu của chính bệnh nhân, ly tâm để tạo ra lưới fibrin, chứa các tiểu cầu, cytokine, các yếu tố tăng trưởng và tế bào. Khi thay đổi tốc độ ly tâm và cắt bớt phần huyết tương  nghèo  tiểu  cầu  chúng  ta  sẽ  được  phần Fibrin giàu tiểu cầu (Platelet Rich Fibrin: PRF) là thế hệ thứ hai của APC. Trong quá trình chuẩn bị PRF, quá trình trùng hợp fibrinogenthành  fibrin xảy  ra  chậm,  tự  nhiên  và  tăng  dần  khi  có  mặt thrombin sinh lý, tạo thành một mạng lưới fibrin tự nhiên mạnh mẽ, tạo ra cấu trúc phân tử tetra. Kết cấu lưới này có thể quấn lấy các tiểu cầu đã hoạt hóa, bạch cầu và các cytokine tuần hoàn/ nội tại, giải phóng chậm (thường kép dài hơn 7 ngày).Các nghiên  cứu lâm sàng và tổng quan hệ thống đã báo cáo lợi thế của việc sử dụng PRF tại chỗ để hỗ trợ cầm máu và thúc đẩy quá trình liền xương. Hạt alpha là thành phần chính của tiểu cầu góp phần làm lành vết thương nhờ các yếu tố tăng trưởng (như: “Yếu tố tăng trưởng có nguồn  gốc  từ  tiểu  cầu”  (PDGF),  “Yếu  tố  tăng trưởng biến đổi β1 và β2” (TGFβ1-TGFβ2), “Yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu”(VEGF),“ Yếu tố tăng trưởng giống insulin-1 ”(IGF-1), và“ Yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGF)) [1

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment