GIÁ TRỊ CỦA XÉT NGHIỆM HCV CORE ANTIGEN TRONG SÀNG LỌC SIÊU VI VIÊM GAN C
GIÁ TRỊ CỦA XÉT NGHIỆM HCV CORE ANTIGEN TRONG SÀNG LỌC SIÊU VI VIÊM GAN C
Lê Thị Thanh Nhàn1, Trần Văn Lợi2, Lương Trần Thanh Duy2, Ngô Quốc Đạt1, Nguyễn Minh Hà2,3
1 Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh
2 Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
3 Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của xét nghiệm HCV core Antigen và đánh giá mối tương quan giữa nồng độ HCV core Antigen và HCV RNA. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 102 bệnh nhân nội trú và ngoại trú đến khám sàng lọc viêm gan C tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 2/2022 đến tháng 6/2022. Xét nghiệm HCV RNA được thực hiện bằng kỹ thuật realtime RT-PCR với bộ sinh phẩm IVD NK RTqPCR-Vcquant KIT, xét nghiệm HCV core Ag được thực hiện bằng kỹ thuật CMIA với bộ thuốc thử của Abbott. Xét nghiệm HCV RNA được sử dụng làm tiêu chuẩn vàng. Xác định độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm HCV core Ag và đánh giá mối tương quan giữa nồng độ HCV core Ag và HCV RNA. Kết quả: Xét nghiệm HCV core Ag có độ nhạy là 93,3% và độ đặc hiệu là 91,7% ở giá trị ngưỡng 3,03 fmol/L, diện tích dưới đường cong ROC là 0,925 (92,5%) (KTC 95%: 0,92-0,99). Có mối tương quan thuận, trung bình giữa nồng độ HCV core Ag và HCV RNA với hệ số tương quan r=0,64 (p<0,001). Kết luận: Xét nghiệm HCV core Ag có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, đồng thời có mối tương quan thuận, trung bình với xét nghiệm HCV RNA. Đây là một xét nghiệm có giá trị và có thể ứng dụng được trong sàng lọc HCV trên bệnh nhân Việt Nam.
Bệnh viêm gan C là bệnh truyền nhiễm do virus viêm gan C (Hepatis C Virus: HCV) gây ra. Theo ước tính của Tổchức Y tếThếgiới năm 2017, trên thếgiới có 71 triệu người bịviêm gan virus C mạn trong đó 14 triệu người sống ởkhu vực Tây Thái Bình Dương. Uớc tính năm 2017, nước ta có 991.153 người bịnhiễm HCV mạn trong đó có 6.638 người tửvong do bệnh gan liên quan đến HCV. Bệnh hầu như luôn không có triệu chứng cho đến giai đoạn rất muộn. Do đó, đểsàng lọc đầy đủnhững cá nhân bịnhiễm virus đang hoạt động là một vấn đềquan trọng ởnhững khu vực lưu hành HCV.Việc sàng lọc HCV theo truyền thống chủyếu vẫn dựa vào xét nghiệm phát hiện Anti-HCV. Đây là xét nghiệm đơn giản, nhanh chóng, nhưng độ nhạy kém trong giai đoạn cửa sổsau khi nhiễm và khảnăng âm tính giảởnhững bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Ngoài ra kết quảxét nghiệm này không phân biệt được tình trạng nhiễm virus thật sựhay nhiễm trong quá khứ. Trong khi đó, xét nghiệm HCV RNA được xem là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán, là một dấu ấn sinh học phân tửxuất hiện sớm, nhạy, nhưng chi phí lại cao, kỹthuật phức tạp, không phù hợp trong xét nghiệm sàng lọc [9]. Đã có một sốnghiên cứu vềxét nghiệm miễn dịch phát hiện kháng nguyên lõi HCV (HCV core Antigen/ HCV core Ag) trong huyết thanh đểchẩn đoán viêm gan C rất hữu ích được phát triển bởi Architect Abbott Diagnostic năm 2009. HCV core Ag dương tính mạnh từngày thứ12 trởđi sau khi nhiễm, gần như đồng thời với phát hiện HCV RNA bằng kỹthuật sinh học phân tử[5]. Xét nghiệm này có thểlà dấu ấn huyết thanh duy nhất đểphát hiện nhiễm HCV trong giai đoạn cửa sổhuyết thanh học do sựđáp ứng trễcủa các kháng thểđặc hiệu HCV. Trên thếgiới đã có nhiều nghiên cứu cho thấy xét nghiệm HCV core Ag có độnhạy và độđặc hiệu tốt. Tuy nhiên hiện tại xét nghiệm này vẫn chưa phổbiến ởnước ta. Nhằm nghiên cứu giá trịcủa xét nghiệm HCV core Ag trên quần thểbệnh nhân ởViệt Nam, chúng tôi thực hiện đềtài “Giá trịcủa xét nghiệm HCV core Antigen trong sàng lọc siêu vi viêm gan C” với mục tiêu: (1) Xác định độnhạy và độđặc hiệu của xét nghiệm HCVcoreAntigentrong sàng lọc HCV ởnhóm bệnh nhân nội trú và ngoại trú tạibệnh viện Nguyễn Tri Phương; và (2) Đánh giá mối tương quan giữa nồng độxét nghiệm HCV core Antigen và HCV RNA.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Độ nhạy, độ đặc hiệu, HCV RNA, HCV core Antigen
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Văn Minh, Lưu Ngọc Hoạt (2020), Phương pháp chọn mẫu và tính toán cỡ mẫu trong nghiên cứu khoa học sức khỏe, Trường đại học Y tế công cộng, Mạng lưới nghiên cứu khoa học sức khỏe Việt Nam, tr. 52.
2. Nguyễn Thị Băng Sương, Bùi Hữu Hoàng, Nguyễn Hữu Huy, Bắc Nguyễn Hoàng (2020), “Đánh giá mối tương quan giữa nồng độ HCV core Ag và HCV RNA”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 24, tr. 16-19.
3. Buket C. A., Ayse A., Selcuk K., Suleyman O.,Emel S. C. (2014), “Comparison of HCV core antigen and anti-HCV with HCV RNA results”, Afr Health Sci. 14(4), pp. 816-20.
4. Cloherty G., Talal A., Coller K., et al. (2016), “Role of Serologic and Molecular Diagnostic Assays in Identification and Management of Hepatitis C Virus Infection”, J Clin Microbiol. 54(2), pp. 265-73.
5. Kamili S., Drobeniuc J., Araujo A. C.,Hayden T. M. (2012), “Laboratory diagnostics for hepatitis C virus infection”, Clin Infect Dis. 55 Suppl 1, pp. S43-8.
6. Morota K., Fujinami R., Kinukawa H., et al. (2009), “A new sensitive and automated chemiluminescent microparticle immunoassay for quantitative determination of hepatitis C virus core antigen”, J Virol Methods. 157(1), pp. 8-14.
7. Park Y., Lee J. H., Kim B. S., et al. (2010), “New automated hepatitis C virus (HCV) core antigen assay as an alternative to real-time PCR for HCV RNA quantification”, J Clin Microbiol. 48(6), pp. 2253-6.
8. Pawlotsky J. M. (2002), “Use and interpretation of virological tests for hepatitis C”, Hepatology. 36(5 Suppl 1), pp. S65-73.
9. Richter S. S. (2002), “Laboratory assays for diagnosis and management of hepatitis C virus infection”, J Clin Microbiol. 40(12), pp. 4407-12.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com