HỘI CHỨNG HẬU HUYẾT KHỐI SAU ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU CHI DƯỚI CẤP TÍNH

HỘI CHỨNG HẬU HUYẾT KHỐI SAU ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU CHI DƯỚI CẤP TÍNH

HỘI CHỨNG HẬU HUYẾT KHỐI SAU ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU CHI DƯỚI CẤP TÍNH
Lê Phi Long1, Nguyễn Hoài Nam2
1 Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM
2 Đại học Y Dược TP.HCM
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ hội chứng hậu huyết khối sau điều trị ngoại khoa huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới đoạn chậu – đùi ở thời điểm 6 tháng sau khi được điều trị ngoại khoa (phẫu thuật lấy huyết khối, can thiệp nội mạch tiêu sợi huyết) tại khoa Lồng ngực – Mạch máu Bệnh viện Đại học Y dược Tp Hồ Chí Minh từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2020. Kết quả: 65 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật (PT) mổ mở, 50 bệnh nhân được điều trị bằng can thiệp nội mạch (CTNM) bơm tiêu sợi huyết tại chỗ. Tuổi trung bình là 47,3 ± 15,0 tuổi. Độ tuổi thường gặp nhất là từ 40 – 60 tuổi chiếm tỉ lệ 39,1%.  98,3% bệnh nhân có hình ảnh huyết khối hoàn toàn trên chụp cắt lớp vi tính. Hội chứng May-Thurner chiếm tỉ lệ 68,7%. Hội chứng hậu huyết khối sau can thiệp điều trị chiếm tỉ lệ 28,9%, trong đó nhóm PT là 30,2% và nhóm CTNM là 26,5%. Không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ hội chứng hậu huyết khối ở 2 nhóm điều trị với p=0,72. Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thời gian khởi phát và hội chứng hậu huyết khối:  BN có triệu chứng khởi phát > 7 ngày có tỉ lệ hội chứng hậu huyết khối cao hơn so với nhóm < 7 ngày. Bệnh nhân có tắc nghẽn sau 6 tháng điều trị có tỷ lệ hội chứng hậu huyết khối cao hơn so với không có tổn thương tắc nghẽn. Kết luận: Hội chứng hậu huyết khối là một vấn đề cần quan tâm theo dõi sau điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới cấp tính.

Hội  chứng  hậu  huyết  khối,  là  một  di  chứng mạn  tính  của  huyết  khối TM sâu, cũng gây ảnh hưởng  nhiều đến  chất lượng  sống  và  làm  tiêu tốn  rất  nhiều kinh phí điều  trị[1].  Một  khảo  sát khác  của  tác  giảPrandoni  và  cộng  sựtrên  224 bệnh  nhân  huyết  khối tĩnh mạch  sâu,  theo  dõi sau 5 năm, tỷlệmắc  hội  chứng  sau  huyết  khối là  30%.  Tỷlệthuyên  tắc  phổi  có  triệu  chứng trên các trường hợp bịhuyết khối tĩnh mạch sâu cấp  tính  là  khoảng  10%.  Tỷlệdi  chứng  sau huyết  khối cũng chiếm  khoảng 2/3 các trường hợp này [1]. Do đó, việc loại bỏsớm huyết khối trong lòng tĩnh mạch,  phục  hồi  sớm lưu thông máu bình thường, phối hợp với kháng đông liệu pháp,  sẽgiúp ngăn chặn  huyết  khối  tiến  triển, giảm  thiểunguy cơ di chuyển  huyết  khối,  giảm thiểu  hiện tượng  tái  phát  huyết  khối,  giúp  bảo tồn chức năng các van tĩnh mạch.Hiệntại ở Việt Nam, các báo cáo về can thiệp điều trị lấy huyết khối hoặc dùng tiêu sợi huyết trực tiếp còn rất ít. Tỉ lệ hội chứng hậu huyết khối còn chưa được ghi nhận trong các báo cáo. Chính vì vậy, chúng tôi làm nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ hội chứng  hậu  huyết  khối  ở  các  bệnh  nhận  được điều trị ngoại khoahuyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới cấp tính tại Bệnh viện Đại học Y dược Tp Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment