KẾT QUẢ ÁP DỤNG KỸ THUẬT ĐÀO THẢI CO₂ QUA MÀNG NGOÀI CƠ THỂ TRONG HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG SUY HÔ HẤP CẤP TIẾN TRIỂN [Luận văn bác sĩ nội trú]
| Title: | KẾT QUẢ ÁP DỤNG KỸ THUẬT ĐÀO THẢI CO₂ QUA MÀNG NGOÀI CƠ THỂ TRONG HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG SUY HÔ HẤP CẤP TIẾN TRIỂN |
| Authors: | Võ Quang, Trung |
| Advisor: | Đỗ Ngọc, Sơn |
| Keywords: | ECCO₂R;ARDS |
| Issue Date: | 2025 |
| Abstract: | Thông khí bảo vệ phổi vẫn là chiến lược thông khí chính cho các bệnh nhân có hội chứng suy hô cấp tiến triển (ARDS) và đã được chứng minh làm tăng khả năng sống sót ở bệnh nhân ARDS¹. Trong bệnh nhân ARDS nặng, để đạt được mục tiêu oxy máu thỏa đáng thì phải sử dụng mức PEEP rất cao. Tuy nhiên, đồng nghĩa với tăng PEEP là áp lực cao nguyên tăng (Pplateau), vượt quá khả năng chịu đựng của phổi dẫn đến tăng nguy cơ tổn thương phổi liên quan thở máy, thúc đẩy thêm tình trạng viêm¹. Để đảm bảo được mục tiêu hạn chế tổn thương phổi do thở máy, thì phải giảm Vt xuống mức rất thấp (4 ml/kg PBW), dẫn đến giảm thông khí phút. Thông khí nhân tạo Vt thấp làm giảm thông khí phế nang, giảm thông khí phút kết hợp với tỉ lệ thông khí khoảng chết tăng cao, thường làm nặng thêm tình trạng ưu thán với CO₂ tăng cao và có thể dẫn đến toan hô hấp mất bù. Vì vậy, ECCO₂R đã được đề xuất như một liệu pháp bổ sung để tạo điều kiện thuận lợi cho thông khí phổi siêu bảo vệ (ultra-protective ventilation) tránh tăng PaCO₂². Kỹ thuật ECCO₂R lần đầu tiên được Gattinoni áp dụng ở bệnh nhân ARDS vào những năm 1980, nghiên cứu quan sát trên 43 bệnh nhân ARDS của Gattinoni đã chỉ ra rằng ECCO₂R kết hợp với tối ưu cài đặt máy thở làm giảm tỉ lệ tử vong³. Nhưng thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đầu tiên được công bố năm 1994 bởi Morris và cộng sự nghiên cứu ở 40 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên chia làm 2 nhóm, 1 nhóm thông khí thông thường, 1 nhóm được thông khí với tần số thấp kết hợp với kỹ thuật đào thải CO₂ qua màng ngoài cơ thể theo chiến lược thông khí thông thường hoặc hỗ trợ thở máy tần số thấp bằng ECCO₂R. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ sống sót giữa hai nhóm⁴. Năm 2009, Terragni và cộng sự chứng minh việc áp dụng ECCO₂R giúp giảm các phản ứng viêm trong máu ở bệnh nhân viêm phổi⁵. Nghiên cứu XTRAVENT có 79 bệnh nhân vào nhóm thông khí phổi siêu bảo vệ (3 ml/kg) kết hợp với ECCO₂R. Nhưng nghiên cứu này không thể phát hiện ra sự khác biệt về tỉ lệ tử vong khi so sánh với thông khí bảo vệ phổi. Tuy nhiên một phân tích lại số liệu trong nghiên cứu XTRAVENT sau đó cho thấy nhiều bệnh nhân có tỉ lệ P/F < 150 đã chứng minh cải thiện số ngày không thở máy với ECCO₂R (40,9 ± 12,8) so với nhóm chứng (28,2 ± 16,4, p = 0,033)6. Năm 2019, Chiến lược thông khí phổi siêu bảo vệ bằng loại bỏ CO₂ ngoài cơ thể cho thử nghiệm ARDS mới khởi phát từ trung bình đến nặng (SUPERNOVA) cho thấy ECCO₂R là phương pháp khả thi và an toàn cho bệnh nhân, với tỉ lệ sống là 62% vào thời điểm xuất viện7. Hiện tại ở Việt Nam đã có một số bệnh viện bước đầu triển khai kỹ thuật đào thải CO₂ qua màng ngoài cơ thể ở nhóm bệnh nhân ARDS, trong đó trung tâm Hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai là nơi đã triển khai được trên nhiều bệnh nhân nhất, tuy vậy cần có các nghiên cứu đánh giá áp dụng kỹ thuật này tại Việt Nam. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kết quả áp dụng kỹ thuật đào thải CO₂ qua màng ngoài cơ thể (ECCO₂R) trong hỗ trợ điều trị hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS)” với 2 mục tiêu như sau: 1. Đánh giá kết quả áp dụng kỹ thuật đào thải CO₂ qua màng ngoài cơ thể (ECCO₂R) trong hỗ trợ điều trị hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) tại Trung tâm Hồi sức tích cực Bệnh viện Bạch Mai. 2. Mô tả một số biến chứng của kỹ thuật đào thải CO₂ qua màng ngoài cơ thể (ECCO₂R) ở các bệnh nhân trên. |
| URI: | |
| Appears in Collections: | Luận văn bác sĩ nội trú |
Chuyên mục: Luận văn bác sĩ nội trú
Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn