Luận văn thạc sĩ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ AFATINIB UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN IIIB – IV CÓ ĐỘT BIẾN EGFR TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG
| Title: | KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ AFATINIB UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN IIIB – IV CÓ ĐỘT BIẾN EGFR TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG |
| Other Titles: | Kết quả điều trị Afatinib ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB – IV có đột biến EGFR tại Bệnh viện Phổi Trung Ương |
| Authors: | Nguyễn Công, Minh |
| Advisor: | Trịnh Lê, Huy |
| Keywords: | Ung thư phổi không tế bào nhỏ;Afatinib, EGFR |
| Issue Date: | 10/2025 |
| Abstract: | Theo thống kê của Globocan 2022, ung thư phổi (UTP) là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới với khoảng 2,5 triệu ca mắc mới và 1,8 triệu ca tử vong mỗi năm. Tại Việt Nam, UTP đứng thứ hai về tỷ lệ mắc mới sau ung thư gan và tiếp tục là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở cả hai giới. Gánh nặng bệnh lý này đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc tối ưu hóa chiến lược điều trị nhằm nâng cao hiệu quả và kéo dài thời gian sống cho người bệnh. UTP được chia thành hai nhóm chính trong đó ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) chiếm khoảng 80-85%, có tiên lượng tốt hơn so với ung thư phổi tế bào nhỏ. Điều trị của UTPKTBN phụ thuộc vào giai đoạn bệnh; ở giai đoạn sớm, phẫu thuật đóng vai trò chủ đạo, trong khi ở giai đoạn muộn, các phương pháp điều trị toàn thân như hóa trị, điều trị đích hay liệu pháp miễn dịch được ưu tiên sử dụng. Mặc dù có nhiều tiến bộ trong sàng lọc phát hiện sớm nhưng phần lớn bệnh nhân UTPKTBN khi được chẩn đoán đã ở giai đoạn muộn. Tỷ lệ sống thêm 5 năm ở giai đoạn này rất thấp (~ 7%), hầu như không thay đổi giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, phản ánh tiên lượng xấu của bệnh ở giai đoạn tiến xa. Trước thực tế tiên lượng còn hạn chế ở giai đoạn muộn, những hiểu biết sâu hơn về sinh học phân tử trong hai thập kỷ gần đây đã mở ra kỷ nguyên điều trị nhắm trúng đích, trong đó đột biến gen EGFR (Epidermal Growth Factor Receptor) được xác định là một trong những đích điều trị quan trọng nhất. Đột biến gen này gặp khoảng 40 – 50% ở quần thể người châu Á, là yếu tố tiên lượng và dự báo đáp ứng điều trị với các thuốc ức chế tyrosine kinase (TKIs) như gefitinib, erlotinib và afatinib. Trong đó, Afatinib – thuốc EGFR-TKI thế hệ hai – có cơ chế ức chế không thuận nghịch toàn bộ họ thụ thể ErbB, đã chứng minh hiệu quả vượt trội so với hóa trị truyền thống, giúp kéo dài thời gian sống thêm không bệnh tiến triển (PFS) và tăng tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) trong các thử nghiệm lâm sàng lớn như LUX-Lung 3, 6 và 7. Tại Việt Nam, Afatinib được Bảo hiểm Y tế chi trả từ năm 2019 và được sử dụng rộng rãi tại các trung tâm ung bướu lớn. Tuy nhiên, các nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị và độ an toàn của Afatinib trong điều kiện thực hành lâm sàng còn rất hạn chế, đặc biệt là nghiên cứu tại Bệnh viện Phổi Trung ương, nơi tiếp nhận hơn 3000 ca ung thư phổi mới mỗi năm, trong đó khoảng 300–400 người bệnh được điều trị bằng thuốc đích. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Kết quả điều trị Afatinib ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB–IV có đột biến EGFR tại Bệnh viện Phổi Trung ương” với hai mục tiêu: 1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng người bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB – IV có đột biến EGFR được điều trị bằng Afatinib tại Bệnh viện Phổi Trung Ương. 2. Đánh giá kết quả điều trị của nhóm người bệnh nghiên cứu. |
| URI: | |
| Appears in Collections: | Luận văn thạc sĩ |
Chuyên mục: luận văn thạc sĩ y học
Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn