Kết quả phẫu thuật nạo u và ghép xương điều trị u tế bào khổng lồ xương

Kết quả phẫu thuật nạo u và ghép xương điều trị u tế bào khổng lồ xương

Kết quả phẫu thuật nạo u và ghép xương điều trị u tế bào khổng lồ xương
Dương Đình Toàn, Nguyễn Trọng Tài, Đoàn Lê Vinh
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nạo và cắt bỏ u một cách rộng rãi và ghép xương là những phương pháp được phổ biến trong điều trị khối u tế bào khổng lồ (Giant Cell Tumors – GCT) của xương. Tỷ lệ thành công của phương pháp này trong các báo cáo khác nhau rất khác nhau. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh gía kết quả phẫu thuật nạo u và ghép xương điều trị u tế bào khổng lồ xương. Thiết kế nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng trên 24 trường hợp khối u tế bào khổng lồ xương, trong đó 21 trường hợp mới và 3 trường hợp tái phát, đã được điều trị bằng phương pháp nạo u và ghép xương tự thân. Đánh giá giai đoạn u xương dựa trên phim X-quang và phim chụp cắt lớp vi tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau thời gian theo dõi trên 2 năm, 100% bệnh nhân liền xương tại vị trí ghép xương, 2 bệnh nhân xuất hiện khối u tái phát tại vị trí u trước đây, chiếm 8,3%. Nhóm tổn thương ở chi trên, điểm MSTS trung bình là 24,5 trong đó thấp nhất là 19, cao nhất là 28; nhóm chi dưới điểm MSTS trung bình là 23,1, trong đó thấp nhất là 17 và cao nhất là 25. Phẫu thuật nạo u và ghép xương là một phương pháp hiệu quả trong điều trị khối u tế bào khổng lồ xương. Việc lựa chọn bệnh nhân cũng như tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc của phẫu thuật khối u sẽ làm giảm tỷ lệ tái phát.

U tế bào khổng lồ (Giant Cell Tumors – GCT) của xương là u lành tính nhưng nhưng có thể phát triển thành ác tính, thường nằm ở vị trí đầu xươg dài xương dài. U thường xuất hiện ở tuổi 20 – 40 tuổi (sau khi sụn phát triển biến mất). Tổn thương vi thể của GCT gồm các tế bào khổng lồ đa nhân xen lẫn với các tế bào mô  đệm  đơn  nhân.  GCT  chiếm  khoảng  20% trong tổng số các loại u xương lành tính và 5% trong tổng số các loại u xương nói chung.1 Tỷ lệ mắc bệnh cao được thấy ở các nước như Trung Quốc và Ấn Độ, nơi GCT chiếm tới 20% tổng số các khối u xương.2GCT của xương tiến triển khó đoán trước, không phải lúc nào cũng liên quan đến hình ảnh X quang hoặc mô học.3 Điều này làm cho việc điều trị bệnh trở thành một chủ đề được tranh luận  không  ngừng.  Việc  điều  trị  tốt  nhất  cần đảm bảo kiểm soát bệnh tại chỗ và duy trì chức năng  chi.  Nạo  u  và  ghép  xương  là  phương pháp điều trị ưu tiên cho hầu hết các trường hợp GCT. Nhiều nghiên cứu trước đó cho thấy tỷ lệ tái phát tại chỗ rất cao (25 – 50%) sau nạo u và ghép xương.4 Việc sử dụng các kỹ thuật hình ảnh hiện đại giúp nạo u triệt để hơn, cũng như sử dụng các thiết bị tiên tiến và các thuốc điều trị bỗ trợ tại chỗ đã cải thiện kết quả, giảm tỷ lệ tái phát (10 – 20%). Phenol, nitơ lỏng, xi măng xương, hydrogen peroxide, kẽm clorua và gần đây hơn là kỹ thuật đốt u bằng chùm argon là những phương pháp bổ trợ làm giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment