KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TẠO HÌNH THÀNH HẦU CHO BỆNH NHÂN BỊ KHE HỞ VÒM MIỆNG BẨM SINH CÓ THIỂU NĂNG VÒM HẦU

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TẠO HÌNH THÀNH HẦU CHO BỆNH NHÂN BỊ KHE HỞ VÒM MIỆNG BẨM SINH CÓ THIỂU NĂNG VÒM HẦU

Thiểu năng vòm hầu (velopharyngeal incompe- tence) (TNVH), thường gặp ở bệnh nhân bị các tổn thương bẩm sinh hoặc mắc phải ở vùng vòm miệng và thành hầu như khe hở vòm miệng, tật ngắn vòm, rộng khoang mũi hầu, khuyết hổng lớn sau cắt hạnh nhân khẩu cái, và các bệnh thần kinh của vùng vòm hầu [4, 8]. Trong khe hở vòm miệng bẩm sinh, TNVH có thể xảy ra ngay cả khi đã phẫu thuật tạo hình đóng kín khe hở vòm mà biểu hiện rõ nhất là các rối loạn về phát âm của bệnh nhân. Tại Việt Nam, trẻ bị dị tật khe hở vòm miệng khá phổ biến, đặc biệt  phẫu thuật tạo hình loại dị tật này thường được thực hiện sau lứa tuổi đi học. Chính vì vậy, tỷ lệ trẻ bị thiểu năng vòm hầu khá cao. Mặt khác, các kỹ thuật tạo hình thành hầu hoàn  toàn  chưa  được  áp  dụng  phổ  biến  trong nhiều chuyên khoa liên quan tới việc điều trị bệnh nhân bị khe hở vòm miệng [1]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các mục tiêu:

1. Mô tả một số biến chứng và dấu hiệu bất thường của từng loại kỹ thuật tạo hình  thành hầu đã được áp dụng trên lâm sàng.

2. Đánh giá kết quả phát âm ở bệnh nhân bị khe hở vòm miệng sau khi phẫu thuật tạo hình thành hầu.

II. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CÚU

42 bệnh nhân bị khe hở vòm miệng bẩm sinh được điều trị tại trung tâm Phẫu thuật tạo hình Hà Nội từ tháng 7/1995 đến tháng 3/2003, bao gồm 26 bệnh nhân chưa được phẫu thuật khe hở vòm miệng và 16 bệnh nhân đã được phẫu thuật tạo hình vòm tại các cơ sở phẫu thuật khác nhưng có biểu hiện của TNVH. Tất cả các bệnh nhân đều được tiến hành khám và đánh giá theo một trình tự như sau:

1. Đánh giá trước phẫu thuật
Đánh giá mức độ tổn thương của khe  hở vòm miệng theo phân loại quốc tế, đặc  biệt độ rộng của khe hở vòm miệng (kích thước khe hở tại ranh giới giữa vòm cứng và mềm).

Đánh giá khả năng co thắt của thành  hầu bên khi phát âm một số nguyên âm (a,  o…) hay trong phản xạ nôn. Đối với những trường hợp đã phẫu thuật vòm miệng, đánh  giá thêm khả năng chuyển động của vòm mềm khi phát âm.

Đánh giá lời nói theo bảng Pitsburg test của Mc Williams tại cơ sở phục hồi chức năng (do bác sĩ phục hồi chức năng ngôn ngữ đảm nhiệm) theo các tiêu chuẩn về động tác phát âm, độ thoát khí qua đường mũi, cộng hưởng mũi miệng, sinh âm, và các lỗi cấu âm [2].

Thiểu năng vòm – hầu là một biểu hiện thường gặp trên bệnh nhân bị khe hở vòm miệng, đặc biệt ở những trường hợp lớn tuổi chưa được phẫu thuật. Mục đích của phẫu thuật tạo hình thành hầu nhằm giải quyết những rối loạn về phát âm. Mục tiêu: (1) Mô tả một số biến chứng và dấu hiệu bất thường của từng loại kỹ thuật tạo hình thành hầu đã được áp dụng trên lâm sàng. (2) Đánh giá kết quả phát âm ở bệnh nhân bị khe hở vòm miệng sau khi phẫu thuật tạo hình thành hầu. Đối tượng và phương pháp: Hai kỹ thuật tạo hình thành hầu (vạt thành hầu sau cuống nuôi trên – kỹ thuật Honig và vạt thành hầu bên – kỹ thuật Orticochea cải tiến) đã được thực hiện ở 42 bệnh nhân bị khe hở vòm miệng bẩm sinh tại Trung tâm phẫu thuật tạo hình Hà Nội từ tháng 7/1995 đến tháng 3/2003. Kết quả và kết luận:  Kỹ thuật Orticochea cải tiến cho kết quả phục hồi phát âm cao hơn, phục hồi hoạt động của vòng thắt vòm hầu một cách sinh lý hơn (89% trường hợp), kỹ thuật đơn giản hơn, hậu phẫu nhẹ nhàng hơn và ít biến chứng hơn so với kỹ thuật Honig. Chính vì vậy kỹ thuật Orticochea cải tiến được áp dụng tốt cho các trường hợp khe hở vòm miệng đã hoặc chưa được phẫu thuật có kèm biểu hiện thiểu năng vòm hầu.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment