Kết quả xạ trị bổ trợ ung thư tuyến nước bọt mang tai tại bệnh viện K

Luận văn thạc sĩ Kết quả xạ trị bổ trợ ung thư tuyến nước bọt mang tai tại bệnh viện K

Title:  Kết quả xạ trị bổ trợ ung thư tuyến nước bọt mang tai tại bệnh viện K
Authors:  Nguyễn Việt, Tiến
Advisor:  TS.BSCKII Nguyễn Văn, Đăng
TS.BS Võ Văn, Xuân
Keywords:  xạ trị bổ trợ tuyến nước bọt mang tai
Issue Date:  2025
Abstract:  U tuyến nước bọt phát triển từ các tuyến nước bọt chính (tuyến mang tai, tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi) hoặc các tuyến nước bọt phụ nằm dưới niêm mạc đường hô hấp – tiêu hóa trên. Trong đó, u tuyến mang tai thường gặp nhất chiếm 70-80%, với khoảng 15-25% là khối u ác tính.1,2 Ung thư tuyến nước bọt mang tai chiếm 0,3% trong các trường hợp ung thư nói chung.3 Tỷ lệ mắc ung thư phụ thuộc vào một số yếu tố nguy cơ như tuổi, giới, nhiễm phóng xạ hoặc phơi nhiễm với một số tác nhân bệnh nghề nghiệp, tuy nhiên mối liên quan này còn chưa được xác định rõ ràng.2
Ung thư tuyến nước bọt mang tai thường có biểu hiện lâm sàng nghèo nàn ở giai đoạn sớm. Khi được chẩn đoán, phần lớn các trường hợp khối u đã tiến triển, xâm lấn tổ chức xung quanh, gây ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ, khiến việc điều trị gặp nhiều khó khăn, đồng thời làm tăng nguy cơ biến chứng và tái phát.
Các phương pháp cận lâm sàng sử dụng trong chẩn đoán ung thư tuyến nước bọt bao gồm siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ, tế bào học, sinh thiết kim nhỏ. Trong đó, siêu âm là phương pháp phổ biến nhất, đơn giản và dễ thực hiện. Chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ đánh giá mức độ xâm lấn của khối u và tình trạng di căn hạch vùng.4 Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm đã trở thành phương pháp xâm lấn tối thiểu trong thăm dò u tuyến nước bọt trước phẫu thuật, phân biệt u lành và ác tính đạt khoảng 90%, từ đó giúp định hướng chiến lược điều trị phù hợp.5
Điều trị ung thư tuyến nước bọt mang tai tiến triển tại chỗ, tại vùng bao gồm: phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến, bảo tồn thần kinh VII, có hoặc không kèm nạo vét hạch cổ, vẫn được xem là phương pháp điều trị chuẩn.4,6,7 Xạ trị bổ trợ đóng vai trò trong việc nâng cao khả năng kiểm soát tại chỗ đối với các khối u có nguy cơ cao bao gồm: độ ác tính cao, diện cắt dương tính, xâm lấn quanh thần kinh, di căn hạch, xâm lấn mạch máu – bạch huyết hoặc khối u T3-4.8–10 Các nghiên cứu quy mô lớn đã cung cấp bằng chứng thuyết phục của lợi ích này. Phân tích từ cơ sở dữ liệu SEER do Mahmood và cộng sự thực hiện cho thấy xạ trị bổ trợ giúp giảm nguy cơ tử vong đáng kể (HR 0,76; 95% CI, 0,65-0,89; p < 0,001), đặc biệt ở nhóm có độ mô học cao và tiến triển tại chỗ.11 Tương tự, nghiên cứu của Safdieh trên 4.068 bệnh nhân ung thư tuyến nước bọt ghi nhận tỷ lệ sống thêm toàn bộ 5 năm cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm được xạ trị bổ trợ so với nhóm không xạ trị (56,0% so với 50,6%; p < 0,001).12 Tại Việt Nam, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Huy Phan cũng ghi nhận tỷ lệ sống thêm không bệnh của các bệnh nhân được xạ trị bổ trợ có xu hướng cao hơn nhóm không xạ bổ trợ (78,9% so với 76%). Mặc dù sự khác biệt chưa đạt ý nghĩa thống kê (p = 0,542), kết quả này vẫn gợi ý lợi ích tiềm năng của xạ trị bổ trợ trong việc cải thiện kết quả điều trị lâu dài.13
Hiện nay, tại Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về điều trị ung thư nước bọt mang tai, tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu tập trung vào đánh giá vai trò của phẫu thuật. Trong khi đó, dữ liệu về hiệu quả xạ trị bổ trợ ung thư tuyến nước bọt mang tai còn hạn chế, do đó chúng tôi tiến hành đề tài: “Kết quả xạ trị bổ trợ ung thư tuyến nước bọt mang tai tại bệnh viện K” với các mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư tuyến nước bọt mang tai được xạ trị bổ trợ tại bệnh viện K.
2. Đánh giá kết quả điều trị và một số tác dụng phụ của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
URI: 
Appears in Collections: Luận văn thạc sĩ

Chuyên mục: luận văn thạc sĩ y học

Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn

Leave a Comment