KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM CÁC TRƯỜNG HỢP SINH THIẾT THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM CÁC TRƯỜNG HỢP SINH THIẾT THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Trần Thị Kim Anh1, Trần Nguyễn Như Uyên2, Vũ Huy Trụ2
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Sinh thiết thận ở trẻ em là kỹ thuật lấy mảnh mô thận nhằm đáng giá bệnh lý thận ở trẻ em, giúp chẩn đoán xác định, tiên lượng và quyết định điều trị. Cần khảo sát đặc điểm các trường hợp sinh thiết thận để có kết hoạch điều trị thích hợp.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, tỉ lệ chỉ định sinh thiết thận, sang thương trong từng chỉ định sinh thiết thận, tỉ lệ tai biến sinh thiết thận và thay đổi chẩn đoán sau sinh thiết thận tại Khoa Thận Nội Tiết Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 1/2017 đến tháng 6/2020.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả hàng loạt ca 294 trẻ được sinh thiết thận.
Kết quả: Trong 294 trẻ được sinh thiết thận, nữ chiếm đa số 54,76%, đa số từ các tỉnh thành khác 80,27%, tuổi trung bình 10,41 ± 3,63. Chỉ định sinh thiết thận thường gặp nhất là viêm thận lupus 42,52% theo sau là hội chứng thận hư 25,51%. Sang thương viêm thận lupus thường gặp nhất là nhóm IV 37,6% và nhóm III 36%. Hội chứng thận hư: thường gặp nhất là sang thương tối thiểu 56%; chỉ định sinh thiết thận thường gặp là kháng steriod 53,33%. Tai biến sinh thiết thận thường gặp nhất là đau vùng sinh thiết 30,61%, theo sau là tiểu máu đại thể 12,24%; tai biến nặng chiếm tỉ lệ thấp. 10 trường hợp (3,4%) thay đổi chẩn đoán sau sinh thiết thận.
Kết luận: Viêm thận lupus là chỉ định sinh thiết thận thường gặp nhất ở trẻ em, theo sau là hội chứng thận hư. Sang thương thường gặp nhất trong viêm thận lupus là nhóm IV và nhóm III. Hội chứng thận hư kháng steroid là chỉ định sinh thiết thận nhiều nhất và sang thương tối thiểu là thường gặp nhất.
Kỹ thuật sinh thiết thận qua da đã được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1951 bởi Iversen và Brun, trải qua nhiều thời kỳ và ngày càng trở nên tương đối an toàn, hiệu quả hơn. Sinh thiết thận qua da được thực hiện nhằm đánh giá bệnh lý thận ở trẻ em, giúp chẩn đoán chính xác, đặc biệt là bệnh lý cầu thận, giúp tiên lượng và quyết định điều trị mà không một xét nghiệm nào khác có thể thay thế được. Mặc dù an toàn, nhưng sinh thiết thận là một thủ thuật xâm lấn, vì vậy tai biến vẫn có thể xảy ra và được theo dõi, báo cáo. Chỉ định sinh thiết thận rất đa dạng trong nhiều báo cáo. Tại bệnh viện Nhi Đồng 2, nghiên cứu của Phạm Công Anh Vũ(1) đã mô tả đặc điểm các trường hợp sinh thiết thận từ 2003 đến 2006. Từ năm 2007 đến nay, chưa có nghiên cứu nào khác tổng kết các trường hợp sinh thiết thận tại khoa Thận bệnh viện Nhi Đồng .
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM CÁC TRƯỜNG HỢP SINH THIẾT THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2