MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CỦA UNG THƯ VÚ VÀ MỘT SỐ THỂ MÔ BỆNH HỌC THƯỜNG GẶP

MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CỦA UNG THƯ VÚ VÀ MỘT SỐ THỂ MÔ BỆNH HỌC THƯỜNG GẶP [Luận văn bác sĩ nội trú]

Title:  MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CỦA UNG THƯ VÚ VÀ MỘT SỐ THỂ MÔ BỆNH HỌC THƯỜNG GẶP
Authors:  Ngô, Thắng
Advisor:  Nguyễn, Thi
Đoàn, Lưu
Keywords:  ung thư vú;cộng hưởng từ
Issue Date:  2025
Abstract:  Mục tiêu: Mô tả và phân tích đặc điểm hình ảnh ung thư vú trên cộng hưởng từ tuyến vú.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 216 bệnh nhân ung thư vú tại Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viên K, từ tháng 01/2023 đến 12/2024. Mô tả các đặc điểm hình ảnh ung thư vú trên cộng hưởng tử tuyến vú , có đối chiếu với mô bệnh học.
Kết quả:
Trong tổng số 216 bệnh nhân, tuổi trung vị là 48 tuổi (IQR: 43–58,5) và kích thước khối u trung vị 21 mm (IQR: 16–30). Trong 217 tổn thương, DCIS chiếm 14,3%, IDC NST chiếm 76,0%, các thể xâm nhập khác chiếm 9,7%.
1. Đặc điểm hình ảnh CHT theo mô bệnh học
Tổn thương tạo khối chiếm ưu thế (80,2%), hình thái phổ biến là không đều (63,8%) với bờ tua gai chủ yếu ở IDC NST (47,9%) và các thể khác (58,8%), trong khi DCIS thường có hình thái không đều (46,1%) và bờ không đều (76,9%). Tổn thương không tạo khối thường phân bố dạng thùy và vùng (27,9%), kiểu ngấm thuốc vòng chùm phổ biến nhất (44,2%), đặc biệt ở DCIS với tỷ lệ 61,1%. IDC NST có ba kiểu ngấm thuốc phân bố đồng đều (~33% mỗi loại), còn các thể khác ưu thế kiểu không đồng nhất (75%).
2. Mối liên quan giữa hình ảnh và mô bệnh học
DCIS chủ yếu biểu hiện không tạo khối (58,1%) với đường cong tiến triển/cao nguyên (67,7%), ADC vùng u cao hơn (1,23 ± 0,24 ×10⁻³ mm²/s) so với khối u xâm nhập (0,91 ± 0,21 ×10⁻³ mm²/s), AUC = 0,861, ngưỡng cắt 0,927 ×10⁻³ mm²/s cho độ nhạy 96,8% và độ đặc hiệu 61,8%. IDC NST chủ yếu tạo khối (87,3%) với đường cong thải thuốc sớm (70,3%), ADC vùng u thấp hơn (0,88 ± 0,18 ×10⁻³ mm²/s so với 1,18 ± 0,28 ×10⁻³ mm²/s ở các thể còn lại, p < 0,001), AUC = 0,82, ngưỡng cắt 1,120 ×10⁻³ mm²/s, độ đặc hiệu cao 92,1% nhưng độ nhạy hạn chế 59,6%.
Kết luận:
CHT vú kết hợp với đo trị số ADC là công cụ hữu ích trong phân biệt DCIS và IDC NST trước phẫu thuật. Tổn thương không tạo khối, kiểu ngấm thuốc vòng chùm và ADC cao có xu hướng là DCIS, trong khi tổn thương tạo khối, bờ tua gai, ngấm thuốc sớm và ADC thấp gợi ý IDC NST. Ngưỡng ADC ≥ 0,927 ×10⁻³ mm²/s hỗ trợ nhận diện DCIS với độ nhạy cao, trong khi ADC ≤ 1,120 ×10⁻³ mm²/s giúp xác định IDC NST với độ đặc hiệu cao.
URI: 
Appears in Collections: Luận văn bác sĩ nội trú

Chuyên mục: Luận văn bác sĩ nội trú

Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn

Leave a Comment