Mối tương quan giữa kích thước, hình thái cơ nâng hậu môn và mức độ sa tạng chậu nữ trên hình ảnh cộng hưởng từ động sàn chậu.

Mối tương quan giữa kích thước, hình thái cơ nâng hậu môn và mức độ sa tạng chậu nữ trên hình ảnh cộng hưởng từ động sàn chậu. [Luận văn bác sĩ nội trú]

Title:  Mối tương quan giữa kích thước, hình thái cơ nâng hậu môn và mức độ sa tạng chậu nữ trên hình ảnh cộng hưởng từ động sàn chậu.
Authors:  Nguyễn, Thanh Hằng
Advisor:  Hoàng, Đình Âu
Lê, Tuấn Linh
Keywords:  cộng hưởng từ động sàn chậu;cơ nâng hậu môn;sa tạng chậu
Issue Date:  2025
Abstract:  Đề tài:
Đánh giá mối tương quan giữa kích thước, hình thái cơ nâng hậu môn và mức độ sa tạng chậu nữ trên hình ảnh cộng hưởng từ động sàn chậu
Mục tiêu:
Xác định đặc điểm kích thước và hình thái cơ nâng hậu môn trên cộng hưởng từ động sàn chậu ở phụ nữ sa tạng chậu, đồng thời phân tích mối tương quan giữa các chỉ số cơ học (chiều dài, độ dày) của cơ nâng hậu môn với mức độ sa các tạng vùng chậu.
Đối tượng và phương pháp:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 91 phụ nữ được chẩn đoán sa tạng chậu tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ năm 2023 đến năm 2025. Tất cả bệnh nhân được chụp CHT động sàn chậu đa thì (nghỉ – rặn – tống phân) theo quy trình chuẩn. Các chỉ số đánh giá gồm: chiều dài, độ dày cơ mu – trực tràng; độ dày cơ chậu – cụt; hình thái phần ngang cơ nâng hậu môn và mức độ sa của bàng quang, tử cung – âm đạo và trực tràng. Dữ liệu được xử lý bằng SPSS 20.0, áp dụng các phép kiểm định tương quan Spearman và Chi-square, ngưỡng ý nghĩa p < 0,05.
Kết quả:
Chiều dài trung bình cơ mu – trực tràng ở thì tống phân có mối tương quan thuận mạnh với mức độ sa trực tràng (r = 0,61; p < 0,001) và tương quan trung bình với sa bàng quang, sa sinh dục, sa túi cùng Douglas (r = 0,36–0,49; p < 0,001). Ngược lại, độ dày cơ mu – trực tràng tương quan nghịch với mức độ sa các tạng (r = –0,30 đến –0,48; p < 0,001). Hình thái phần ngang cơ nâng hậu môn biến đổi có quy luật theo trục trước – sau: từ dạng hình chậu → phễu → bán vòm → vòm, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Tỷ lệ các hình thái bất thường (funnel/dome) tăng dần theo mức độ POP-Q. Các kết quả này tương đồng với các nghiên cứu của Guo & Li (2007), Singh (2002), Ansquer (2018) và Berger (2014), cho thấy sự biến đổi hình thái và cấu trúc cơ nâng hậu môn vừa là hậu quả của sa, vừa phản ánh sự suy yếu chức năng nâng đỡ nền tảng.
Kết luận:
Cộng hưởng từ động sàn chậu là phương tiện giá trị trong đánh giá toàn diện hình thái và chức năng cơ nâng hậu môn. Chiều dài tăng, độ dày giảm và biến dạng hình thái của cơ nâng hậu môn có mối tương quan chặt với mức độ sa tạng chậu, đặc biệt ở khoang giữa và sau. Sự thay đổi này không chỉ là hậu quả của hiện tượng sa mà còn có thể là yếu tố nền góp phần vào cơ chế bệnh sinh. Nghiên cứu góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu hình ảnh học ban đầu cho việc đánh giá và điều trị phục hồi sàn chậu ở phụ nữ Việt Nam.
URI: 
Appears in Collections: Luận văn bác sĩ nội trú

Chuyên mục: Luận văn bác sĩ nội trú

Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn

Leave a Comment