Nghiên cứu các phản ứng truyền máu tại khoa lâm sàng bệnh máu viện huyết học – truyền máu, bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2001 – 2003
Năm 1900, Karl Landsteiner (1882 – 1959) đã nêu được vấn đề hoà hợp nhóm máu trong truyền máu và sơ đồ truyền máu. Những thành công của truyền máu đã bắt đầu từ thế kỷ XIX và phát triển mạnh ở thế kỷ XX [4]. Đầu thế kỷ XX, truyền máu toàn phần đã cứu được nhiều người bệnh và đem lại không ít những thành công trong điều trị. Tuy nhiên, truyền máu toàn phần cũng để lại nhiều hậu quả không mong muốn và những hạn chế trong điều trị.
Từ những năm 70 thế kỷ trước, nhờ kỹ thuật tách các sản phẩm máu, truyền máu từng phần đã phát triển ở hầu hết các nước tiên tiến [2]. Ở Việt Nam, trước năm 1995 truyền máu toàn phần chiếm > 90%. Từ sau năm 2000, nhờ dự án cấp nhà nước nghiên cứu sản phẩm và chuẩn hóa các sản phẩm máu tại viện Huyết học – Truyền máu [3]. Truyền máu từng phần đã phát triển ở hầu hết các bệnh viện ở Hà Nội và một số địa phương. Trước năm 2000 phản ứng do truyền máu chiếm tỷ lệ cao, do truyền máu toàn phần hoặc truyền các sản phẩm máu nhưng chưa được chuẩn hóa
Theo thống kê của Nguyễn Thị Minh An tại viện Huyết học – Truyền máu tỷ lệ này là 11% [1]. Hiện nay, các đề tài đánh giá các phản ứng truyền máu khi các sản phẩm máu đã được chuẩn hóa và bác sỹ lâm sàng được huấn luyện về chỉ định truyền máu và chế phẩm máu. Hiện nay, trong nước đã có một số nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, mới chỉ chú ý đến những biểu hiện lâm sàng nói chung mà chưa đề cập đến mức độ thường gặp của phản ứng do chế phẩm nào gây ra, loại bệnh nào hay gặp các phản ứng. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Nghiên cứu những biểu hiện lâm sàng và tỷ lệ phản ứng của từng loại chế phẩm máu, từng loại bệnh máu trong phản ứng truyền máu giai đoạn 2001 – 2003.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng: Là những bệnh nhân được truyền máu và chế phẩm máu tại khoa lâm sàng bệnh máu viện huyết học – Truyền máu, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2001 đến tháng 9/2003. Bệnh nhân được theo dõi trong quá trình truyền máu 1 ngày/lần và ghi vào phiếu truyền máu theo mẫu của Bộ Y tế. Mẫu số 20/BV – 01M.
Các biểu hiện phản ứng do truyền máu.
– Nổi mày đay xuất hiện trong hoặc sau khi tru- yền chế phẩm máu, sốt, rét run, co thắt phế quản.
– Cơn tan máu cấp: Xuất hiện ngay sau khi truyền được vài ml. Bệnh nhân rét run, đau thắt lưng, sau đó sốt.
– Sốc phản vệ: Thường xuất hiện ngay sau khi truyền máu. Bệnh nhân rét run, da tái, lạnh, cảm giác khó chịu, vật vã kích thích, sau đó mất ý thức, huyết áp tối đa < 90 mmHg, mạch nhanh nhỏ, khó bắt.
– Phù phổi cấp
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế mô hình nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang và tiến cứu gồm có các bước sau:
Thống kê toàn bộ số lần phản ứng truyền máu theo mẫu nghiên cứu với các chỉ số:
+ Thông tin về đơn vị máu sử dụng có dấu hiệu phản ứng:
+ Thống kê các biêủ hiện lâm sàng của phản ứng.
+ Thống kê tỷ lệ phản ứng truyền máu ở một số bệnh.
+ Thống kê tỷ lệ phản ứng theo chế phẩm máu.
Mục tiêu: Nghiên cứu phản ứng truyền máu và chế phẩm máu tại khoa Lâm sàng bệnh máu – Viện Huyết học truyền máu – Bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2001 – 2003. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 39184 đơn vị máu và chế phẩm máu được truyền cho bệnh nhân. Kết quả: Chế phẩm có tỷ lệ phản ứng cao nhất là khối bạch cầu chiếm 2,5%, HTTĐL chiếm 0,8%, hồng cầu rửa và cryo 0,73%, khối hồng cầu 0,14%. Nhóm bệnh hay gặp phản ứng nhất là hemophilia chiếm 0,94%, nhóm bệnh nhân tự miễn chiếm 0,59%, xuất huyết giảm tiểu cầu chiếm 0,63%, nhóm ung thư máu chiếm 0,07%. Các biểu hiện lâm sàng là mẩn ngứa chiếm 51,56%, rét run chiếm 37,5%, khó thở chiếm 0,78%, tụt huyết áp là 2,34%, sốc 0,78%. Kết luận: Nhờ sản xuất và chuẩn hóa được các sản phẩm máu mà phản ứng truyền máu tại viện Huyết học – Truyền máu 2001 – 2003 đã giảm đáng kể (0,32%).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích