NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, TỔN THƯƠNG MÔ BỆNH HỌC CỦA THẬN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 CÓ HỘI CHỨNG THẬN HƯ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, TỔN THƯƠNG MÔ BỆNH HỌC CỦA THẬN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 CÓ HỘI CHỨNG THẬN HƯ
Nguyễn Thúy Quỳnh Mai , Tạ Phương Dung*, Nguyễn Thị Thanh Thùy*, Võ Thị Kim Thanh*,
Lê Thị Hồng Vũ*
TÓM TẮT
Mở đầu: Xác định tổn thương mô bệnh học của thận giúp phân biệt bệnh nhân đái tháo đường (BN ĐTĐ) có hội chứng thận hư (HCTH) hoặc ĐTĐ kèm theo bệnh cầu thận nguyên phát.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở BN ĐTĐ týp 2 có HCTH và mối liên quan với thể tổn thương mô bệnh học thận ở BN ĐTĐ týp 2 có HCTH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang 38 BN được chẩn đoán ĐTĐ týp 2 có HCTH tại Bệnh viện Nhân dân 115 (từ tháng 05/2009 đến tháng 05/2011).
Kết quả: Tuổi trung bình là 60,11± 10,04, tiểu đạm đại thể 6,27±3,78g/24 giờ, albumin/máu là 2,5-3,8g/dl, protein/máu từ 4,2-6,2 g/dl, 57,9% có cholesterol > 240 mg/dl, 84,2% có triglycerid cao 150 – 499 mg/dl và 63,3% có LDL-C cao 130 -189mg/dl. 94% các BN này kiểm soát đường huyết kém (HbA1C > 7%) với 68,5% suy thận (GFR <60 mL/min/1,73 m2). Thời gian từ khi phát hiện ĐTĐ đến khi có HCTH >10 năm 17/35 BN: 47,36%. Khảo sát mô bệnh học thận trên 35 BN cho thấy viêm cầu thận tăng sinh 12/35 BN (34,3%) và xơ hóa cầu thận 17/35 BN (48,6%), phù hợp với tổn thương do tiểu đường. Sang thương không phù hợp do tiểu đường là tổn thương tối thiểu 6/35 BN (17,1%). So sánh với hai nhóm BN có tổn thương mô bệnh học còn lại, BN sang thương tối thiểu tiểu đạm nhiều hơn (p=0,002), giảm protid và albumin máu nhiều hơn (p = 0,006).
Kết luận: Sinh thiết để chẩn đoán thể tổn thương mô bệnh học và là cơ sơ quan trọng cho tiên lưong và điều trị BN ĐTĐ týp 2 có HCTH.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh mạn tính, rất phổ biến, gây nhiều biến chứng cơ quan đích, và chi phí điều trị tốn kém. Gánh nặng bệnh tật do ĐTĐ đang tăng lên trên toàn cầu(9), đặc biệt ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam – nơi quá trình đô thị hóa đang làm thay đổi tập quán ăn uống, giảm hoạt động thể lực và tăng cân(10). Bệnh thận do ĐTĐ là thuật ngữ dùng để chỉ những tổn thương thận thứ phát do ĐTĐ. Những tổn thương cầu thận này có nét đặc trưng về mặt hình thái, nó được mô tả bởi Kimmelstiel và Wilson từ năm 1936(2). Tổn thương thận trong ĐTĐ là tổn thương hay gặp và gây hậu quả nặng nề. Việc phát hiện sớm cũng như điều trị tốt bệnh lý này là một vấn đề rất cần quan tâm để tránh tình trạng suy thận giai đoạn cuối, bên cạnh đó cùng với kiểm soát đường huyết tốt sẽ giảm được biến chứng thận ở BN ĐTĐ.Theo Mai Thế Trạch (2003), Micheal B và cộng sự (2004) tổn thương thận là biến chứng sớm của bệnh ĐTĐ týp 2 thể hiện: microalbumin niệu, protein niệu ở xét nghiệm và lâm sàng biểu hiện bằng HCTH và suy thận mạn tính(14,7).
Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng, tổn thương mô bệnh học của HCTH do ĐTĐ týp 2 có một số đặc điểm khác biệt, nét đặc thù so với HCTH do bệnh cầu thận nguyên phát. Nhận biết những nét đặc thù trên là cơ sở cho chẩn đoán
thể bệnh, tiên lượng và lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh thận ở BN ĐTĐ týp 2 có HCTH, cũng như xác định thể tổn thương mô bệnh học thận và mối liên quan với một số yếu tố (protein niệu/24g, độ lọc cầu thận, rối loạn lipid máu…) ở BN ĐTĐ týp 2 có HCTH để giúp cho việc chẩn đoán và điều trị tốt hơn bệnh thận do ĐTĐ.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất