Nghiên cứu tình trạng tái đồng bộ co bóp cơ tim bằng siêu âm Doppler mô ở bệnh nhân có hội chứng W-P-W sau điều trị RF
Rối loạn nhịp tim (RLNT) rất thường gặp, là một trong những vấn đề phức tạp và quan trọng trong bênh lý tim mạch, nhất là trong cấp cứu tim mạch [77].
RLNT là một trong những lý do khiến bênh nhân phải nhập viên và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bênh lý tim mạch [3], [77], [93]. Trong vài thập kỷ qua đã có những tiến bộ vượt bậc trong chẩn đoán và điều trị RLNT góp phần làm giảm đáng kể tỉ lê tử vong do bênh lý tim mạch nói chung và RLNT nói riêng.
Hội chứng W-P-W là thể thường gặp nhất của hội chứng tiền kích thích (chiếm 0,1 – 0,3% các điên tâm đồ thường quy [51]). Điều quan trọng nhất của hội chứng này là các RLNT nhất là các cơn nhịp nhanh kịch phát. Các nghiên cứu cho thấy, khoảng 2/3 bênh nhân hội chứng W-P-W có biểu hiên RLNT [23], [38]. RLNT quan trọng có thể nói là các cơn nhịp nhanh do vòng vào lại nhĩ thất với tần số tim thường rất nhanh 140 – 240 ck/ph [77], [91], [93].
Hội chứng W-P-W sẽ càng nguy hiểm hơn nếu xuất hiên rung nhĩ, cuồng nhĩ vì các xung động với từ tâm nhĩ có thể dẫn truyền dễ dàng xuống thất qua đường dẫn truyền bất thường (ĐDTBT) dẫn tới tần số đáp ứng thất rất cao gây rối loạn huyết động, thậm chí chuyển thành rung thất gây tử vong [49], [94].
Phương pháp điều trị các rối loạn nhịp tim trong hội chứng W-P-W được lựa chọn hiên nay là triệt đốt ĐDTBT bằng năng lượng sóng tần số radio qua đường ống thông với tỉ lê thành công cao và biến chứng rất thấp [3], [88].
Sự mất đồng bộ điên học ở bênh nhân có hội chứng W-P-W là kinh điển. Vậy sự mất đồng bộ về phương diên cơ học ở các bênh nhân hội chứng W-P-W sẽ như thế nào? Từ khi siêu âm Doppler ra đời, trên thế giới đã có một số nghiên cứu về tình trạng mất đồng bô cơ tim ở bênh nhân có hôi chứng W-P-W [22], [40], [56], [58], [62], [76], [98] cũng như sự tái đồng bộ co bóp cơ tâm thất ở các bênh nhân sau khi được triệt đốt ĐDTBT… Hầu hết các công trình này đều cho thấy, cũng như mất đồng bộ điện học, mất đồng bộ cơ học là phổ biến ở các bệnh nhân hội chứng W-P-W và có sự thay đổi đáng kể tình trạng đồng bộ cơ tim sau khi ĐDTBT được triệt bỏ.
Siêu âm Doppler mô cơ tim (Tissue Doppler Imaging – TDI) là một kỹ thuật siêu âm dựa vào nguyên lý gần giống với nguyên lý của siêu âm Doppler thông thường nhưng cho phép thu được vận tốc thấp của mô cơ tim [68], [75], [80], [86]. Không những cho phép đánh giá chức năng toàn bộ thất trái mà còn đánh giá được chức năng của từng vùng thất trái bằng cách đặt cửa sổ Doppler vào từng vị trí muốn thăm dò. Trên thế’ giới, có nhiều nghiên cứu đã chứng minh được siêu âm Doppler rất có giá trị trong việc đánh giá tình trạng MĐB cơ học của cơ tim.
Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về tình trạng đồng bộ cơ tim ở bệnh nhân có hội chứng W-P-W. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tình trạng tái đồng bộ co bóp cơ tim bằng siêu âm Doppler mô ở bệnh nhân có hội chứng W-P-W sau điều trị RF”. Với các mục tiêu:
1. Nghiên cứu tình trạng mất đồng bộ co bóp cơ tim bằng siêu âm Doppler mô cơ tim ở bệnh nhân có hội chứng W-P-W.
2. Nghiên cứu tình trạng tái đồng bộ cơ tim sau điều tri RF ở các bệnh nhân nói trên.
3. Góp phần xác đinh vi trí ĐDTBT ở bệnh nhân có hội chứng W-P-W bằng siêu âm Doppler mô.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích