Nốt đơn độc dạng kính mờ ác tính phổi – Tổng quan tài liệu và báo cáo ca bệnh
Nốt đơn độc dạng kính mờ ác tính phổi – Tổng quan tài liệu và báo cáo ca bệnh
Cung Văn Công
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nốt đơn độc phổi (Solitary Pulmonary Nodule – SPN) là hình mờ khu trú trên phim X quang hoặc CT ngực có đường bờ rõ ràng; ít nhất một phần được bao bọc bởi nhu mô phổi; thường có hình cầu; đường kính bằng hoặc nhỏ hơn 3 cm; có thể đặc (Solid Nodule – SN), kính mờ (Ground Glass Opacity – GGO) hoặc bán đặc (Part Solid – PS). Một phần ba các khối ung thư phổi (UTP) thể hiện bằng khối hoặc nốt đơn độc và phần lớn thuộc loại ung thư biểu mô tuyến (UTBMT). Phân loại mô bệnh học cập nhật 2021 của WHO, UTBMT được chia thành các thể: UTBMT xâm lấn tối thiểu (Minimally Invasive Adenocarcinoma – MIA); UTBMT không tiết nhầy xâm lấn (Invasive Non – Mucinous Adenocarcinoma – INMA); UTBMT – nhầy xâm lấn (Invasive Mucinous Adenocarcinoma – IMA); UTBMT dạng keo (Coiloide Adenocarcinoma – CA); UTBMT – thai (Fetal Adenocarcinoma – FA) và UTBMT – ruột (Enteric Adenocarcinoma – EA). UTBMT xâm lấn tối thiểu (MIA) thường có các thành phần đặc trưng chủ yếu chiếm ưu thế, trong đó có thể Lepidic (Lepidic Predominant Adenocarcinoma – LPA) và tuyến nang (Acinar Predominant Adenocarcinoma – APA) với những mức độ ác tính ở bậc thấp khác nhau. Chúng tôi báo cáo ca bệnh APA, dạng GGO, được chẩn đoán và phẫu thuật tại bệnh viện Phổi trung ương, bước đầu cho kết quả tốt.
Các nốt đơn độc phổi (SPN) thể hiện trên phim cắt lớp vi tính (CLVT) ngực dưới các hìnhthái: Nốt đặc (SN); Bán đặc (PS) và kính mờ (GGO). Nốt được coi là đặc khi độ mờ của nó che khuất các cấu trúc phổi (mạch máu, đường dẫn khí); kính mờ là nốt tăng đậm độ nhưng không che khuất các cấu trúc phổi; bán đặc khi nốt kính mờ có thành phần đặc bên trong.1Chụp CLVT ngực là phương tiện chủ đạo, dễ thực hiện và thường cho thấy hình ảnh SPN một cách rõ ràng. Một phần ba các UTP thể hiện trên phim là nốt đơn độc và thường là UTBM tuyến. Phát hiện UTP được coi là sớm khi mà tổn thương chỉ có xâm lấn tại chỗ và chưa có di căn xa.1-4 UTBMT xâm lấn hiện diện từ 70% đến 90% trong các UTBMT phổi đã được phẫu thuật, là loại UTBM thường gặp nhất trong thực hành lâm sàng.1 Các phân nhóm mô bệnh học (MBH) UTBMT tuyến xâm lấn hiện được phân loại theo thành phần chiếm ưu thế, sau khi đã được phân loại mô học toàn diện, kể cả dưới týp. Trong các tài liệu, các khối u có hình ảnh khó nhận biết đã được nhấn mạnh, trong đó cóUTBMT thể Acinar ưu thế (tuyến nang – APA), nhất là khi nó chỉ thể hiện dạng GGO.1,3Ung thư biểu mô tuyến Acinar ưu thế, hoặc APA, là một thuật ngữ đã được sử dụng trong phân loại của WHO năm 2015, cập nhật 2021. Mặc dù người ta đã nhận ra rằng xâm lấn đã xuất hiện song mô hình APA vẫn chiếm ưu thế. APA đại diện cho sự tăng sinh của tế bào phổi tương tự như thấy trong MIA song hiện diện ở ít nhất một vị trí, kích thước > 5mm.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Ung thư biểu mô tuyến, Ung thư biểu mô tuyến thể tuyến nang ưu thế, Ung thư biểu mô tuyến xâm lấn tối thiểu, Ung thư phổi, giai đoạn ung thư phổi
Nguồn: https://luanvanyhoc.com