PHẪU THUẬT BƯỚU TUYẾN THƯỢNG THẬN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 1993 – 2002.
PHẪU THUẬT BƯỚU TUYẾN THƯỢNG THẬN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 1993 – 2002.
Ngô Xuân Thái*
TÓM TẮT
Hai tuyến thượng thận (TTT) là các cơ quan nội tiết nằm trong ổ bụng, sau phúc mạc và nằm khá cao ngay dưới cơ hoành. Do vị trí sau phúc mạc nên có thể có nhiều đường vào TTT: các đường mổ sau lưng, các đường mổ qua ngả bụng trước, các đường mổ ngực bụn g. Mỗi đường mổ trong phẫu thuật cắt TTT có chỉ định riêng.
Mục tiêu của nghiên cứunày là nhằm đánh giá tác dụng của các đường mổ khác nhau trong phẫu thuật cắt bướu TTT và tìm hiểu các vấn đề về kỹ thuật cắt TTT cũng như tình hình điều trị phẫu thuật TTT tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian 10 năm 1993-2002. Phương phá p nghiê n cứ u: Nghiên cứu tiến hành theo phương pháp tiền cứu dạng thống kê mô tả. Tất cả bệnh nhân được nghiên cứu theo mẫu bệnh án thống nhất. Chúng tôi nghiên cứu tất cả bệnh nhân bị bướu TTT đã được phẫu thuật tại khoa Ngoại tiết niệu bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ 1993-2002. Bệnh nhân được chẩn đoán, điều trị ngoại khoa, đánh giá kết quả phẫ u thuật. Có 109 TH được phẫ u thuật cắt tuyến thượng thận.
Phẫu thuật: Chúng tôi dùng nhiều đường mổ khác nhau để tiến hành phẫu thuật cắt bướu TTT: các đường mổ thắt lưng sau phúc mạc và các đường mổ bụng trước xuyên qua ngả phúc mạc.
Kế t quả :Đặc điểm của mẫu nghiên cứu 109 TH mổ: Tuổi: 41,8 ±15,4 (17 – 73). Giới: Nam/Nữ = 73/ 36. Bướu ở bên phải 65 TH, ở bên trái 44 TH. 5 TH bướu hai bên. 2 TH bướu TTT có tính chất gia đình. Kích thước
của bướu: 7,2 cm ±5,2 (2-20).
Kết quả phẫu thuật: Thời gian mổ trung bình 103,4 phút ±20,2 (50–195). Máu mất trung bình 104 ml ±203,6 (20 – 930). Có 18/109 TH cần phải truyền máu trong và sau mổ (16,5%), trung bình 350 ml ±243 (250 – 1500). Thờ i gian nằ m việ n: 15,2 ngà y ±9,5 (7 – 49). Thời gian hậu phẫu: 9,4 ngày ±6,5 (7 – 36). Cá c tai biế n khi mổ :7/109TH (6,4 %). Cá c biế n chứ ng sau mổ : 12/109TH (11 %).
Bà n luậ n: Chúng tôi dùng các đường mổ thắt lưng sau phúc mạc trong đa số các trường hợp, đường mổ này cho phép tiếp cận tuyến thượng thận nhanh nhất, không đụng chạm vào các cơ quan trong phúc mạc. Đường mổ thắt lưng cắt xương sườn 12 và đôi khi là xương sườn 11 được nhiều tác giả dùng trong các trường hợp bướu TTT nhỏ, lành tính. Chúng tôi sử dụng các đường mổ bụng trước cho cáctrường hợp bướu to, cuộc mổ gặp nhiều khó khăn. Trong loạt nghiên cứu của chúng tôi chưa có trường hợp nào cần dùng đường mổ ngực bụng. Thời gian gần đây có một số báo cáo trong nước về phẫu thuật cắt tuyến thượng thận qua ngả nội soi ổ bụng. Chúng tôi cũng có một số trường hợp thực hiện phẫu thuật này tại bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh việ n Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không nằm trong thời gian của loạt nghiên cứu này.
Kết luận:Mỗi đường vào TTT có chỉ định riêng, các đường mổ thắt lưng ngoài phúc mạc có chỉ định trong các trường hợ p bướu nhỏ, lành tính. Các đường mổ bụng trước qua phúc mạc được sử dụng đối với các bướu to, có khả năng á c tính cao hoặc bướu có tiê n lượ ng phẫ u thuậ t khó khă n
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất