PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI-XOANG
PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI-XOANG
LƯỢC SỬ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT MỔ NỘI SOI MŨI XOANG
Từ năm 1978, phẫu thuật điều trị bệnh lý vùng mũi-xoang đã thay đổi đáng kế sau 2 công trình nghiên cứu của 2 tác giả: Messerklinger (Áo) và Wigand (Đức) về ứng dụng kỹ thuật nội soi trong phẫu thuật các xoang cạnh mũi. Kỹ thuật này nhanh chóng chứng tỏ các ưu điểm vượt trội về việc gia tăng độ chiếu sáng và khả năng quan sát các mốc giải phẫu trong hốc mũi và tính ưu việt trong khả năng quan sát các ngách nằm khuất sâu trong hốc mũi.
Tại Hoa Kỳ, từ 1985, sau các báo cáo của Kennedy và Stammberger về công trình nghiên cứu về ứng dụng ống nội soi cứng để chẩn đoán và điều trị các bệnh tích vùng mũi xoang, kỹ thuật nội soi mũi-xoang bắt đầu lan truyền và phát triển mạnh mẽ trên
khắp thế giới, tạo nên nhiều trường phái lớn cho đến ngày nay. Phẫu thuật nội soi mũi-xoang có những tiến bộ quan trọng là nhờ sự ra đời của 3 thành tựu giữ vai trò cơ sở cho lý thuyết phẫu thuật nội soi mũi-xoang chức năng, đó là: (1) Kỹ thuật nội soi chẩn đoán, (2) Sinh lý và sinh lý bệnh của phức hợp lỗ thông mũi-xoang, và (3) Phim CT (tư thế coronal và axial).
Kỹ thuật nội soi chẩn đoán cung cấp các thông tin có giá trị, giúp thầy thuốc đánh giá tình trạng bệnh lý vùng mũi- xoang. Quang trường nội soi được chiếu sáng và rõ nét, giúp bác sĩ tai-mũi-họng dễ dàng tiếp cận và đánh giá một cách chính xác các bệnh lý sâu trong hốc mũi, đặc biệt là vùng phức hợp lỗ thông mũi-xoang – một vùng hẹp ở khe mũi giữa, nằm giữa xương cuốn mũi giữa và thành ngoài hốc mũi. Phức hợp lỗ thông mũi-xoang là vùng giải phẫu có cấu tạo hết sức phức tạp, là nơi dẫn lưu của các xoang cạnh mũi (xoang hàm, xoang sàng, xoang trán), khi tắc nghẽn sẽ gây nên hiện tượng ứ đọng, phù nề và tắc nghẽn hơn nữa, dẫn đến tình trạng viêm xoang mạn hoặc tái phát
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất