SO SÁNH THỜI GIAN TRƠ ĐƯỜNG PHỤ ƯỚC TÍNH BẰNG NGHIỆM PHÁP GẮNG SỨC ĐIỆN TÂM ĐỒ VÀ XÁC ĐỊNH BẰNG THĂM DÒ ĐIỆN SINH LÝ TIM Ở BỆNH NHÂN WPW KHÔNG TRIỆU CHỨNG
SO SÁNH THỜI GIAN TRƠ ĐƯỜNG PHỤ ƯỚC TÍNH BẰNG NGHIỆM PHÁP GẮNG SỨC ĐIỆN TÂM ĐỒ VÀ XÁC ĐỊNH BẰNG THĂM DÒ ĐIỆN SINH LÝ TIM Ở BỆNH NHÂN WPW KHÔNG TRIỆU CHỨNG
Phan Đình Phong1,2, Nguyễn Thanh Hưng3, Bùi Văn Nhơn2
1 Viện Tim mạch Việt Nam, BV Bạch Mai
2 Trường Đại học Y Hà Nội
3 Bệnh viện Hữu nghị ĐK Nghệ An
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nghiên cứu mối tương quan giữa thời gian trơ hiệu quả theo chiều xuôi (AP AERP) ước tính bằng nghiệm pháp gắng sức (EST) điện tâm đồ với giá trị AP AERP xác định bằng thăm dò điện sinh lý (EPS) ở bệnh nhân Wolff – Parkinson – White (WPW) không triệu chứng. Nghiên cứu tiến hành trên 35 bệnh nhân WPW không triệu chứng. Các bệnh nhân được phân tầng nguy cơ bằng EST: các bệnh nhân nguy cơ thấp sẽ ước tính AP AERP dựa vào tần số tim tại thời điểm tiền kích thích đột ngột biến mất, các bệnh nhân nguy cơ cao ước tính AP AERP dựa vào tần số tim tối đa bệnh nhân đạt được khi tiến hành nghiệm pháp. Các đối tượng nghiên cứu sau đó được tiến hành EPS xác định AP AERP. Các giá trị AP AERP thu được từ 2 phương pháp được so sánh và kiểm định. Có 6 bệnh nhân được phân tầng nguy cơ thấp bằng EST, AP AERP ước tính bằng EST của các bệnh nhân này là 469 ± 84 ms, không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với giá trị xác định bằng EPS là 451± 128 ms. 29 bệnh nhân được phân tầng nguy cơ cao bằng EST, AP AERP ước tính bằng EST là 379 ± 31 ms, dài hơn có ý nghĩa thống kê so với giá trị xác định bằng EPS là 298± 77 ms.Các bệnh nhân WPW không triệu chứng khi làm EST có kết quả không phải phân tầng nguy cơ thấp cần được thăm dò điện sinh lý tim và triệt đốt đường dẫn truyền phụ nhĩ thất.
Trong quần thểthì tỉlệbệnh nhân có điện tâm đồWPW ước tính từ0,1-0,3% [1]. Tần suất mắc mới mỗi năm của WPWlà rất thấp (khoảng 0,004%), trong đó khoảng 50% là không có triệu chứng. Như vậy, còn lại là những trường hợp WPW không triệu chứng. Các nghiên cứu đã chỉra rằng bệnh nhân WPWban đầuđượcđánh giá là không triệu chứng đã xuất hiện các rối loạn nhịp tim trong quá trình theo dõi.Các kết quảnghiên cứu chothấy, tỷlệnguy cơ bịđột tửởnhóm WPW có triệu chứng là 3-4%; trong khi đó tỷlệWPW không triệu chứng có nguy cơ bịđột tửliên quan đến tiền kích thích chiếm khoảng 0,6% [2]. Điều trịbệnh nhân WPW bao gồm các biện pháp theo dõi lâu dài, dùng thuốc chống loạn nhịp và cắt đốt đường dẫn truyền phụqua đường ống thông. Trong đó, thăm dò điện sinh lý và triệt đốt bằng sóng cao tần là biện pháp điều trịmang tính triệt đểvới tỷlệthành công cao, biến chứng thấp và là lựa chọn hiện nay của phần lớn các trường hợp WPW. Tuy nhiên, chỉđịnh can thiệp ởbệnh nhân WPW không triệu chứng vẫn là một vấn đềđang được bàn luận, đặc biệt là những đối tượng nguy cơ thấp.Hiện nay, nhiều trung tâm tim mạch ởnước ta đã thực hiện thủthuật triệt đốt hội chứng WPW. Đối với các trung tâm có lưu lượng bệnh nhân lớn, nhiều kinh nghiệm, có thểchỉđịnh triệt đốt các ca WPW không triệu chứng nhưng ởcác trung tâm ít kinh nghiệm hơn, theo dõi bệnh nhân lại là giải pháp hợp lý vềmặt lợi ích -nguy cơ. Các biện pháp thăm dò không xâm lấn, đặc biệt là nghiệm pháp gắng sức điện tâm đồ, đóng vai trò quan trọng trong phân tầng nguy cơ bệnh nhân WPW không triệu chứng.AP AERP ngắn là một trong những yếu tốđểphân tầng bệnh nhân WPW không triệu chứng là nguy cơ cao.Thời gian trơ hiệu quả của đường phụ thường được xác định trong thăm dò điện sinh lý, nhưng vẫn có thể ước tính bằng thăm dò không xâm nhập.Nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu: “mô tảmối tương quan giữa thời gian trơ hiệu quả theo chiều xuôi (AP AERP) ước tính bằng nghiệm pháp gắng sức (EST) điện tâm đồ với giá trị AP AERP xác định bằng thăm dò điện sinh lý (EPS) ở bệnh nhân Wolff-Parkinson-White(WPW) không triệu chứng”.
https://thuvieny.com/so-sanh-thoi-gian-tro-duong-phu-uoc-tinh-bang-nghiem-phap-gang-suc-dien-tam-do/