SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ CEA HUYẾT THANH TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI TRÀNG GIAI ĐOẠN II – III TẠI BỆNH VIỆN K

Luận văn thạc sĩ SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ CEA HUYẾT THANH TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI TRÀNG GIAI ĐOẠN II – III TẠI BỆNH VIỆN K

Title:  SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ CEA HUYẾT THANH
TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI TRÀNG
GIAI ĐOẠN II – III TẠI BỆNH VIỆN K
Authors:  Phạm, Minh Tùng
Advisor:  Hồ, Quang Huy
Keywords:  CEA huyết thanh, Ung thư đại tràng giai đoạn II-III, tiên lượng
Issue Date:  27/11/2025
Abstract:  Ung thư đại tràng (UTĐT) là một loại ung thư phổ biến và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới và cũng là nguyên nhân gây tử vong thứ hai ở tại Mỹ.1,2 UTĐT cũng là một trong những loại ung thư mắc hàng đầu ở Việt Nam, UTĐT ở các nước phát triển chiếm 60% các trường hợp. Theo thống kê của GLOBOCAN2022 trên thế giới mỗi năm có khoàng 1.926.425 ca mới mắc và 904.019 ca tử vong do UTĐT.3 Mặc dù có khả năng điều trị khỏi, nhưng hơn 40% bệnh nhân mắc bệnh ở giai đoạn II hoặc III sẽ bị tái phát.4 Tỷ lệ mắc UTĐT khác nhau trên toàn cầu, cao nhất là ở Úc và NewZealand, Châu Âu và Bắc Mỹ, cuối cùng là Châu Phi và Nam Trung Á.5 Do các triệu chứng của bệnh thường không đặc hiệu dễ nhầm lẫn sang những bệnh khác nên gây khó khăn trong việc chẩn đoán sớm UTĐT. Hiện nay các phương pháp điều trị UTĐT bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, liệu pháp miễn dịch và liệu pháp đích, mỗi phương pháp dựa trên từng giai đoạn bệnh và đặc điểm bệnh nhân.6 Trong đó, phẫu thuật là phương pháp hàng đầu giúp cải thiện triệu chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, việc theo dõi các chất chỉ điểm u (tumor marker) mang lại nhiều giá trị về tiên lượng chẩn đoán cũng như theo dõi trước và sau điều trị UTĐT. Chính vì vậy hiện nay các nghiên cứu thường tập trung vào các phương pháp sàng lọc và theo dõi tiên lượng bệnh để cải thiện tỉ lệ tử vong cũng như theo dõi diến biến điều trị của bệnh nhân.
Carcinoembryonic antigen (CEA) là một dấu ấn sinh học huyết thanh không đặc hiệu, tăng cao trong nhiều loại khối u ác tính khác nhau gồm UTĐT, ung thư vú, ung thư buồng trứng. Nó lần đầu được phát hiện trong các tế bào UTĐT bởi Feedman and Gold và cuối cùng là được tìm thấy ở nhiều tế bào biểu mô khác ở dạ dày, thực quản, cổ tử cung và tuyết tiền liệt.7 CEA là một glycoprotein có trọng lượng phân tử khoảng 200 kDa và có nguồn gốc từ biểu mô nội bì phôi thai ở thai nhi, được kiểm soát bởi các gen gây ung thư của thai nhi.8 Cho đến ngày nay thì CEA có thể được phát hiện trong huyết thanh người do 85% tiết ra từ biểu mô đại tràng, điều này làm cho việc sàng lọc bệnh nhân bằng các xét nghiệm miễn dịch được thực hiện dễ dàng hơn.9 Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ CEA sau phẫu thuật điều trị UTĐT tăng lên là dấu hiệu của sự tái phát hoặc di căn xa.10 Vì vậy, xét nghiệm CEA sớm trở thành xét nghiệm thường quy ở bệnh nhân UTĐT.
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về marker CEA nhưng việc đánh giá mối liên quan giữa CEA với các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng vẫn còn chưa đầy đủ. Ở Việt Nam các nghiên cứu về sự thay đổi và tiên lượng của CEA trên bệnh nhân UTĐT giai đoạn II – III qua nhiều thời điểm vẫn còn nhiều điểm vẫn còn hạn chế. Do đó chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Sự thay đổi nồng độ CEA huyết thanh trên bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II – III tại Bệnh viện K” với 02 mục tiêu:
1. Khảo sát nồng độ CEA, một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân UTĐT giai đoạn II – III.
2. Tìm hiểu sự thay đổi nồng độ CEA của bệnh nhân UTĐT giai đoạn II – III sau phẫu thuật.
URI: 
Appears in Collections: Luận văn thạc sĩ

Chuyên mục: luận văn thạc sĩ y học

Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn

Leave a Comment