THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI TÁI SINH SẢN CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI

THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI TÁI SINH SẢN CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI TÁI SINH SẢN CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI.Việt Nam đang ở giai đoạn hạ thấp nhanh chóng mức sinh, với tổng tỷ suất sinh năm 1989 là 2,33 con đã giảm xuống 2,05 con mỗi phụ nữ trong vòng hơn 20 năm qua (1989 – 2012). Sự hạ thấp này chủ yếu là kết quả của việc chính phủ Việt Nam đã dành ƣu tiên cao cho công cuộc giảm mức sinh và hãm đà gia tăng dân số kể từ khi đất nƣớc hoàn toàn thống nhất vào năm 1975. Tuy nhiên, năm 2013 tổng tỷ suất sinh lại tăng đôi chút với 2,10 con/ phụ nữ và chỉ giảm rất ít vào năm 2014 (2,09 con/phụ nữ). Tỷ suất sinh thô năm 2014 là 17,2‰ (tức 17,2 trẻ sinh ra sống trên 1000 ngƣời dân). Tỷ số giới tính của trẻ em là 112,2 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 111,9 bé trai/100 bé gái của năm 2011. Tỷ suất chết thô năm 2014 là 6,9‰; tỷ suất chết của trẻ em dƣới 1 tuổi là 11,8‰; tỷ suất chết của trẻ em dƣới 5 tuổi là 22,4‰. Mặc dù có những tiến bộ trong việc hạ thấp mức sinh, nhưng mức độ gia tăng dân số vẫn còn nhanh. Dân số trung bình cả nƣớc năm 2014 ước tính 90,72 triệu ngƣời, tăng 1,06% so với năm 2013 [59].
Mặc dù có những tiến bộ trong việc hạ thấp mức sinh, nhưng mức độ gia tăng dân số vẫn còn nhanh, và người ta lo ngại về những hậu quả bất lợi có thể xảy ra cho nền kinh tế Việt Nam. Theo cuộc điều tra dân số năm 1989, Việt Nam có tỷ suất sinh thô là 30‰, tỷ suất tử là 8‰ và do đó tỷ lệ tăng trƣởng tự nhiên là 2,2%. Năm 2014, tỷ suất sinh thô là 17,2 ‰ và tỷ suất tử là 6,9‰. Theo tỷ lệ này, số dân nước ta năm 2014 là hơn 90,72 triệu ngƣời. Kể từ khi công bố kết quả của tổng điều tra dân số tính đến ngày 1/4/2009 thì dân số Việt Nam là 85,8 triệu. Đến nay dân số đã đạt hơn 90 triệu ngƣời. Dự báo với mức sinh hiện nay thì dân số Việt Nam sẽ đạt 95,29 triệu vào năm 2019-102,7 triệu vào năm 2029 và 108,7 triệu vào năm 2049,2 xếp thứ 3 các nước đông dân nhất khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia, Philippin) và thứ 13 so với thế giới.
Dân số Việt Nam đạt 90 triệu người được coi là sự kiện có ý nghĩa quan trọng việc phát triển về nhân khẩu học, qui mô và cơ cấu dân số của nước ta hiện nay và trong tương lai gần. Tăng dân số đang là vấn đề của toàn cầu chủ yếu tập trung ở châu Á, châu Phi, là chiến lƣợc của mỗi quốc gia. Dân số ổn định là cơ sở của một xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc, vì mục tiêu của sự phát triển bền vững.


Năm 2013 dân số Việt Nam đạt xấp xỉ 90 triệu người là mốc đánh giá nước ta đã thực hiện vƣợt mức chỉ tiêu về chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2020. Qui mô dân số không vƣợt qua 93 triệu ngƣời vào năm 2015 và 98 triệu ngƣời vào năm 2020.
Việt Nam đã bƣớc vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” từ năm 2007 (2 ngƣời trong độ tuổi lao động “cõng” 1 ngƣời phụ thuộc chƣa đến tuổi lao động hoặc hết tuổi lao động). Theo dự báo giai đoạn “dân số vàng” ở nƣớc ta sẽ kết thúc vào năm 2041. Với đặc điểm này, độ tuổi lao động ở Việt Nam tăng từ 61% đến 70%, cả nước có gần 50 triệu lao động chiếm khoảng trên 51% dân số. Việt Nam cần nắm bắt thời cơ này, một trong những việc cần làm là đào tạo nghề có chất lƣợng cao để tạo sức cạnh tranh trên thị trƣờng lao động trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Đây cũng chính là lợi thế rất lớn về lực lƣợng lao động hiện nay đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Theo dự báo thời cơ thuận lợi này có thể kéo dài từ 30 – 40 năm. Nhưng bên cạnh của cơ hội tăng dân số thì cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức cần đƣợc quan tâm đúng mức. Công tác DS – KHHGĐ có những công việc lâu nay chúng ta vẫn triển khai có kết quả nhƣ: giảm tỉ suất sinh, giảm tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên, thực hiện các biện pháp tránh thai, bảo đảm sức khỏe sinh sản, sàng lọc thai nhi trƣớc sinh và3 sau sinh thì hiện nay công tác Dân số – KHHGĐ đang đứng trƣớc những vấn đề “nóng” phải đối mặt. Đó là già hóa dân số, vấn đề giảm sinh, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Ở Việt Nam ngay từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999 đã cho thấy “tỷ số giới tính khi sinh của toàn quốc là 107, nhƣng ở nhiều nơi tỷ số này lại rất cao, nhƣ An Giang: 128; Kiên Giang: 125; Sóc Trăng: 124; Trà Vinh: 124; Hải Dƣơng: 120; Thái Bình: 120…”. Đối với Hà Nội, ở cả hai cuộc TĐTDS 1999 và TĐTDS 2009 số liệu đều cho thấy tỷ số giới tính khi sinh nằm trong biên độ cao dao động từ 107-115 trẻ em trai/100 gái [9]. Tỷ số giới tính là một chỉ số nhân khẩu học phản ánh cơ cấu giới tính của một quần thể dân số, trong đó tỷ số giới tính khi sinh (SRB) thƣờng đƣợc các nhà nhân khẩu học quan tâm nhất. Tỷ số giới tính khi sinh đƣợc xác định bằng số trẻ em trai đƣợc sinh ra trên 100 trẻ em gái. Tỷ số này thông thƣờng là 103 đến 106/100. Duy trì chỉ số này trong giới hạn trên sẽ đảm bảo sự cân bằng trong phát triển tự nhiên và xã hội của một quốc gia. Hơn thế nữa, sự gia tăng nhƣ thế có thể làm tăng thêm sức ép dân số trên đất đai, đặc biệt đối với những khu vực sản xuất lƣơng thực nhƣ đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc và đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam. Cuộc vận động tích cực cho chƣơng trình kế hoạch hóa gia đình của chính phủ Việt Nam tiến hành hơn 30 năm kể từ khi Ủy ban Quốc gia Dân số và sinh đẻ kế hoạch đƣợc thành lập ngày 11/4/1984 theo Quyết định của Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Thủ tƣớng Chính phủ), mới đây đƣợc bổ sung thêm một chính sách rõ ràng với định mức cho mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con cho hầu hết mọi cặp vợ chồng. Trong những năm qua, Việt Nam cũng đã có nhiều thay đổi quan trọng trong chính sách kinh tế của đất nước. Chính sách
Đổi mới của chính phủ Việt Nam đã góp phần tăng nhanh sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy trao đổi kinh tế với các nƣớc khác, hứa hẹn sẽ đưa đến nhiều thay đổi tiếp theo trong tương lai. Tuy nhiên, một mối lo ngại đang4 đƣợc đặt ra là liệu mức độ kiểm soát của chính phủ đối với hoạt động kinh tế gia đình có chiều hƣớng giảm sút, gắn liền với công cuộc đổi mới có thể vô tình góp phần làm yếu đi khả năng của nƣớc ta trong việc duy trì và tiếp tục những thành tựu của mình trong lĩnh vực kế hoạch hóa gia đình nhằm hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ.
Mặt khác, những năm gần đây tại khu vực đồng bằng sông Hồng, Hà Nội đang chịu áp lực gia tăng dân số, nhất là trong khu vực nội thành nhưng chất lượng lại thấp và không đồng đều giữa nội thành và ngoại thành, đây là những thách thức đối với công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình của Thủ đô. Số liệu thống kê cho thấy sau khi mở rộng địa giới hành chính, dân số Thủ đô đạt trên 7,1 triệu người. Đặc biệt trong vòng 4 năm (2008 – 2011) dân số Hà Nội đã tăng khoảng 43 vạn ngƣời, trong đó tăng dân số cơ học lên tới 5 vạn người/năm, chủ yếu thuộc các đối tƣợng trong độ tuổi lao động.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố có trên 30 dân tộc cư trú; trình độ dân trí và mức sống của mỗi dân tộc, mỗi vùng khác nhau. Nhận thức về công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình, mức thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản – kế hoạch hóa gia đình cũng có khoảng cách và khác biệt giữa các khu vực.
Trên thực tế, tại các huyện ngoại thành, tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh và tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên thường rất cao. Theo Niên giám Thống kê của Cục Thống kê thành phố Hà Nội, năm 2015 thì mặc dù tỷ lệ sinh con thứ ba của phụ nữ Hà Nội năm 2014 có giảm so với năm 2013, nhưng những trọng điểm sinh con thứ ba vẫn cao, chủ yếu ở các huyện ngoại thành mới như: Hoài Đức (15,59%); Thạch Thất (14,29%); Ứng Hòa (12,63%); Đan Phượng (12,38%); Phú Xuyên (11,70%); và Ba Vì (11,61%)…Huyện ngoại thành cũ như Đông Anh (9,07%), Gia Lâm (7,18%).
Các huyện ngoại thành khác tỷ lệ này dao động trong khoảng từ 5,84% đến5 8,19%. Các đơn vị tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh cao cũng thường ở những khu vực này nhƣ: Gia Lâm, Ứng Hòa, Mê Linh… Nâng cao chất lượng dân số, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về chất lƣợng dân số là vấn đề được chính quyền và các ban ngành Hà Nội đặc biệt quan tâm. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thái độ và hành vi tái sinh sản của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Xuất phát từ ý nghĩa trên, việc nghiên cứu thái độ và hành vi tái sinh sản của cư dân Hà Nội là việc làm cần thiết. Việc nghiên cứu này nhằm góp phần vào việc lập chính sách, phát triển các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho các cộng đồng dân cư, thúc đẩy sự giảm mức sinh cao đang còn duy trì trong một số nhóm cư dân, nhằm ổn định mức sinh thay thế cũng như nâng cao chất lượng dân số thủ đô. Đây cũng là một trong những mục tiêu đang được đặc biệt chú trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của thủ đô và của cả nước trong giai đoạn phát triển mới

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của luận án 1
2 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 5
2.1. Mục đích 5
2.2. Nhiệm vụ 5
2.3. Giả thuyết nghiên cứu 6
3 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 7
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu 7
4 Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 7
4.1. Phƣơng pháp luận 7
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 7
4.2.1. Phƣơng pháp tổng hợp và phân tích số liệu 7
4.2.2. Phƣơng pháp định lƣợng 8
4.2.3. Phƣơng pháp định tính 12
4.2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu trƣờng hợp 12
5 Đóng góp mới của luận án 12
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 13
6.1. Ý nghĩa lý luận 13
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 14
7 Cơ cấu của luận án 15
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ THÁI ĐỘ VÀ
HÀNH VI TÁI SINH SẢN
1 Nghiên cứu có liên quan đến thái độ và hành vi tái sinh sản trên
thế giới và Việt Nam
16
1.1. Thực trạng tình hình nghiên cứu 16
1.2. Xu hƣớng 18
1.3. Các yếu tố tác động đến thái độ và hành vi sinh đẻ 20
2 Nghiên cứu liên quan đến hành vi dân sô và kế hoạch hóa gia 29đình đƣợc tiến hành tại Hà Nội
2.1. Thực trạng tình hình nghiên cứu 29
2.2. Xu hƣớng 30
2.3. Các yếu tố tác động đến thái độ và hành vi sinh đẻ 33
CHƢƠNG II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
1 Các quan điểm lý thuyết 37
1.1. Lý thuyết động lực sinh học 37
1.2. Lý thuyết động lực xã hội 39
1.3. Lý thuyết động lực kinh tế: so sánh chi phí và lợi ích 39
1.4. Thuyết ý tƣởng về văn hóa 40
2 Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong luận án 41
2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng 41
2.2. Lý thuyết hành vi 43
2.3. Lý thuyết hành động xã hội 46
2.4. Lý thuyết dân số và quá độ dân số 51
2.5. Các phƣơng pháp tiếp cận khác đối với sự quá độ dân số 53
3 Hệ thống các khái niệm 54
3.1. Khái niệm về thái độ 54
3.2. Khái niệm về hành vi 56
3.3. Hành vi xã hội 57
3.4. Hành vi con ngƣời 57
3.5. Khái niệm tái sinh sản 58
3.6. Hành vi tái sinh sản 58
3.7. Địa vị xã hội và địa vị phụ nữ 58
4 Khung phân tích 60
CHƢƠNG III. THÁI ĐỘ TÁI SINH SẢN CỦA NGƢỜI DÂN HÀ
NỘI
1 Giới thiệu chung về dân số và phát triển Hà Nội 64
1.1. Quy mô dân số 64
1.2. Cơ cấu dân số 67
1.3. Cơ cấu dân số theo độ tuổi 692 Đặc điểm nhân khẩu – xã hội đối tƣợng nghiên cứu tại Hà Nội 70
3 Thái độ về số con và sinh đẻ 70
3.1. Thái độ về số con và nhu cầu sinh đẻ 70
3.2. Mong muốn về sinh con và thiên vị giới tính 82
3.3. Phân tích hồi quy kiểm định sở thích sinh con trai 101
Tiểu kết chƣơng III 104
CHƢƠNG IV. HÀNH VI TÁI SINH SẢN VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC
ĐỘNG
4.1 Hiểu biết và sử dụng các biện pháp tránh thai 107
4.2 Hành vi tái sinh sản 112
4.2.1. Hành vi sinh đẻ – áp lực từ phía các thành viên trong gia
đình
115
4.2.2. Hành vi sinh đẻ – áp lực từ phía cộng đồng 122
3.2.3. Giá trị đứa con – nhân tố tác động đến hành vi sinh đẻ 124
4.3 Tác động của một số yếu tố kinh tế – xã hội đến thái độ và hành
vi tái sinh sản của ngƣời dân Hà Nội
127
4.3.1. Tác động của yếu tố kinh tế 128
4.3.2. Tác động của các yếu tố văn hóa – xã hội 130
4.3.3. Tác động của giá trị đứa con đến sinh đẻ 134
4.3.4. Tác động từ gia đình 136
4.3.5. Địa vị phụ nữ 138
Tiểu kết chƣơng IV 140
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 144
1. Kết luận 144
2. Kiến nghị 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 16

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment