Thực trạng sử dụng rượu bia và một số yếu tố liên quan ở sinh viên trường Cao đẳng Y Dược Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020

Thực trạng sử dụng rượu bia và một số yếu tố liên quan ở sinh viên trường Cao đẳng Y Dược Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020

Thực trạng sử dụng rượu bia và một số yếu tố liên quan ở sinh viên trường Cao đẳng Y Dược Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020.Lạm dụng rượu bia có rất nhiều tác hại đối với sức khỏe. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), đây là yếu tố nguy cơ của 200 loại bệnh tật và chấn thương trong đó các bệnh chính là xơ gan, viêm tụy, rối loạn tâm thần, hội chứng ngộ độc rượu của thai nhi ở phụ nữ mang thai… [61]. Năm 2011, ước tính có khoảng 2,5 triệu ca tử vong mỗi năm liên quan đến rượu bia, con số đó tăng lên 3,3 triệu năm 2012, chiếm tỷ lệ 5,9% tổng số ca tử vong và 5,1% gánh nặng bệnh tật trên toàn thế giới [61]. Năm 2014, có khoảng 76 triệu người rối loạn tâm thần do sử dụng rượu [35]. Năm 2015, lạm dụng rượu bia góp phần gây ra gần 85 triệu số năm mất đi do bệnh tật và tử vong sớm (DALYs) [44].

Rượu bia cũng làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư: miệng, thanh quản, vùng mũi hầu họng, đại tràng [61]. Uống rượu bia quá mức còn gây ra mất ngủ, trầm cảm, suy giảm trí nhớ, làm cho con người dễ sa vào các hành vi nguy hại như: quan hệ tình dục không an toàn làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV, tiêm chích ma túy thậm chí là tự sát [60], [66]. Tại Mỹ, trung bình từ 2006-2010, đã có 88.129 trường hợp tử vong mỗi năm do sử dụng rượu bia quá mức, trong đó, những nguyên nhân chính gây tử vong là bệnh gan do rượu, tai nạn xe cộ, ngộ độc và tự sát [27]. Tại Áo, trong số những người mắc mới xơ gan hằng năm thì có 61,4% nam giới và 61% nữ giới đã sử dụng rượu bia trong thời gian dài [61]. Tại Úc, năm 2011, 70% người dân thừa nhận từng ảnh hưởng tiêu cực do người sử dụng rượu bia gây ra như: đập phá tài sản, bỏ bê vợ con, bạo lực gia đình [57]. Năm 2012, trong tổng số trường hợp tai nạn giao thông tại Hàn Quốc thì 25,6% nam giới và 3,6% nữ giới nói đã sử dụng rượu bia ở trước đó [61]. Năm 2017, Việt Nam tốn 4 tỷ đô la cho rượu bia, tiêu thụ khoảng 305 triệu lít rượu, tương đương 72 triệu lít cồn và gần 4,1 tỷ lít bia, tương đương 161 lít cồn, cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 3 Châu Á chỉ sau Trung Quốc (dân số gấp 14,5 lần) và Nhật Bản (dân số gấp 1,3 lần) [7], [8]. Sử dụng rượu bia là Thang Long University Library
2 nguyên nhân chính gây tai nạn giao thông tại Việt Nam, liên quan đến 70% vụ xô xát, gây gỗ, đâm chém nhau của đối tượng thanh thiếu niên từ thành thị đến nông thôn [20]. Theo một nghiên cứu năm 2008, tỷ lệ sử dụng rượu, bia trong lứa tuổi vị thành niên và thanh niên đã tăng gần 10% sau 5 năm (từ 51% năm 2003 lên 60% năm 2008), nếu chia theo giới thì 80% nam và ở 36,5% nữ là từng sử dụng rượu bia, trong số đó có 60,5% nam và 22% nữ cho biết đã từng say rượu, bia [2]. Lứa tuổi thanh thiếu niên là lứa tuổi có nhiều sự thay đổi về thể chất và tâm hồn, muốn chứng tỏ bản thân, thể hiện với bạn bè, do đó dễ bị sa ngã, ảnh hưởng những hành vi xấu từ xã hội, trong đó có việc sử dụng rượu bia [46]. Đối tượng này dễ nghiện rượu, bia hơn người lớn vì thiếu kiến thức về tác hại của rượu bia [50]. Ở sinh viên thì đây là giai đoạn học tập quan trọng trước ngưỡng cửa gia nhập xã hội, quyết định đội ngũ nhân lực y tế tương lai cho đất nước và tương lai của bản thân mỗi sinh viên nên càng phải quan tâm, kiểm soát việc sử dụng rượu bia chặt chẽ hơn nữa. Đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh nơi tập trung nhiều sinh viên từ các tỉnh lân cận sống xa gia đình và tới một môi trường mới, nơi có thể mang lại nhiều bạn bè mới, lối sống mới nhưng cũng có thể làm tăng hành vi nguy cơ mới đặc biệt uống rượu quá mức, do đó sinh viên đại học thường có khuynh hướng uống nhiều hơn so với những người cùng trang lứa không học đại học [31]. Việc uống rượu bia ở các sinh viên trường y cần được quan tâm vì họ sau này sẽ là những cán bộ y tế người chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng. Tuy nhiên điều đáng lo ngại là tỷ lệ sử dụng rượu bia ở sinh viên trường y rất cao. Tại Mỹ gần 78% sinh viên trường y đã sử dụng rượu bia [30], trong khi đó ở Việt Nam con số này là 65% [29]. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu gần đây chưa đánh giá mức độ sử dụng rượu bia ở sinh viên một cách tối ưu nhất. Trước thực tế sinh viên uống rượu ngày càng nhiều và thường xuyên, cần có nhiều hơn những nghiên cứu nhằm xác định rõ mức độ sử dụng rượu bia ở sinh viên và bộ công cụ AUDIT sẽ đáp ứng được tiêu chí đó [18], [58]. AUDIT là bộ công cụ do WHO xây dựng, có tính tin cậy cao, sử dụng được trên nhiều
3 đối tượng, nhiều quốc gia và đã được chuẩn hóa tại Việt Nam, ưu điểm của nó là xác định rõ bốn mức độ uống rượu dựa vào tổng điểm của 10 câu hỏi, từ đó có thể nhận diện được những sinh viên có nguy cơ cao. Chính vì vậy, tôi muốn thực hiện nghiên cứu “Thực trạng sử dụng rượu bia và một số yếu tố liên quan ở sinh viên trường Cao đẳng Y dược Hồng Đức năm 2020” sử dụng bộ công cụ AUDIT với mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng sử dụng rượu bia của sinh viên trường Cao đẳng Y dược Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh năm 2020. 2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên trường Cao đẳng Y dược Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Thang Long University Library
4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tổng quan về sử dụng rượu bia 1.1.1. Khái niệm về rượu bia Rượu bia là loại thức uống chứa cồn. Rượu được sản xuất bằng quá trình lên men của ngũ cốc và hoa quả. Quá trình lên men là một quá trình hóa học, theo đó nấm men hoạt động theo một số thành phần nhất định trong thức ăn, tạo ra rượu [49]. Bia là loại đồ uống lên men, được làm từ nguyên liệu chính là đại mạch, nước, hoa bia và men. Một số loại ngũ cốc khác có thể sử dụng thay thế đại mạch. Độ cồn của bia dao động từ 0,5%-14%, phổ biến từ 4%-6%. Hiện nay, trên thế giới có cả loại bia có độ cồn lên tới trên 20%, tuy nhiên chưa phổ biến ở Việt Nam [2]. Đơn vị rượu (ĐVR) là một đơn vị đo lường dùng để quy đổi các loại thức uống có cồn, bia rượu với nhiều nồng độ khác nhau. Không có một rượu bia thống nhất cho tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên, đơn vị được nhiều quốc gia chấp nhận rộng rãi nhất là: 1 đơn vị cồn tương đương 10 gam cồn nguyên chất chứa trong dung dịch uống [40]. Cách tính đơn vị cồn trong rượu bia: Đơn vị cồn = Dung tích (ml) x Nồng độ (%) x 0,79 (hệ số quy đổi) Ví dụ: chai bia 330ml và nồng độ cồn 4% sẽ có số gam cồn là: 330 x 0,04 x 0,79 =10,4; tương đương 1 đơn vị cồn. Như vậy, 1 đơn vị cồn tương đương với 2/3 chai bia 500ml hoặc một lon bia 330 ml (5%); 1 ly rượu vang 100 ml (13,5%); 1 cốc bia hơi 330 ml hoặc 1 chén rượu mạnh 30 ml (40%) [2]. 1.1.2. Phân loại rượu bia Theo TCYTTG, rượu bia được phân loại theo nồng độ cồn như sau [14]:
5 – Bia: có nồng độ cồn khoảng 5%. – Rượu nhẹ: có nồng độ cồn khoảng 12 – 15%. Rượu mạnh: có nồng độ cồn khoảng 40%. Uống quá chén: – Uống quá chén (HED: Heavy episodic drinking) được định nghĩa là việc tiêu thụ 60 gram cồn nguyên chất hoặc hơn, tương đương với 6 đơn vị rượu ít nhất một lần mỗi tháng, HED giúp nhận diện người có nhiều khả năng đối với các tác hại cấp tính của rượu như ngộ độc, chấn thương, bạo lực… [61]. Các mức độ trong sử dụng rượu bia , theo bảng phân loại DSM.IV của Hiệp hội Tâm thần Mỹ. Theo bảng phân loại DSM.IV (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders) của Hiệp hội Tâm thần Mỹ, rối loạn do sử dụng đồ uống có cồn được chia làm 2 mức độ: Lạm dụng (Alcohol abuse) và phụ thuộc rượu bia (Alcohol dependence) [14]. Phân loại theo sự quản lí của nhà nước – Đồ uống trong tầm quản lí của nhà nước: Đồ uống trong tầm quản lí của nhà nước (recoded alcohol) là tất cả những loại đồ uống có cồn được nhà nước quản lí, thu thuế và ghi nhận vào hệ thống báo cáo, thống kê. Các loại đồ uống này theo các tiêu chuẩn được quy định về nhãn mác, thành phần, chất ượng… Đồ uống nằm ngoài sự quản lí của nhà nước. – Đồ uống nằm ngoài sự quản lí của nhà nước (unrecorded alcohol) là tất cả những loại đồ uống có cồn không được nhà nước quản lí, thu thuế, vì vậy cũng không được đảm bảo về chất ượng, nguồn gốc xuất xứ. Những loại đồ uống này thường tồn tại dưới các hình thức như: rượu bia nấu thủ công (được sử dụng tại gia đình hoặc với mục đích thương mại), rượu tự pha (rượu thuốc, rượu ngâm…),rượu bia nhập lậu, các sản phẩm chứa cồn không phải đồ uống (cồn công nghiệp/y khoa, nước súc miệng, nước hoa…), rượu bia xách tay từ nước ngoài [61]. Thang Long University Library
6 1.1.4. Tác hại của việc sử dụng rượu bia Đối với sức khỏe Trên thế giới, rượu bia là một trong năm nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tử vong, là nguyên nhân gián tiếp của 200 loại bệnh tật, chấn thương và là nguyên nhân trực tiếp của ít nhất 30 bệnh [5]. Theo WHO, rượu bia là một trong năm nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật trên toàn thế giới, lạm dụng rượu bia gây ra cái chết của 3,3 triệu người mỗi năm (chiếm 5,9% của tất cả các trường hợp tử vong) [61]. Trong một nghiên cứu toàn cầu về gánh nặng bệnh tật, thương tích và chi phí kinh tế do việc sử dụng rượu bia vào năm 2004 đã chỉ ra có 11% số ca tử vong ở nam giới tại khu vực châu Âu là do rượu bia gây ra [28]. Tại Mỹ, ước tính có 88.000 (khoảng 62.000 nam và 26.000 nữ) người tử vong do các nguyên nhân liên quan đến rượu gây ra hàng năm [27]. Lạm dụng rượu bia còn là nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc các bệnh không lây như ung thư gồm: vú, vòm họng, thực quản, gan, dạ dày, đại trực tràng. Các bệnh lý tim mạch như tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ và tăng huyết áp, bệnh lý đái tháo đường, các rối loạn tâm thần và hành vi [61]. Năm 2009, bệnh gan do rượu là nguyên nhân chính gây tử vong gần 1/3 số ca ghép gan ở Hoa Kỳ [25]. Trong năm 2015, trong số 78.529 ca tử vong do bệnh gan ở những người từ 12 tuổi trở lên, có 47% liên quan đến rượu, trong đó nam giới chiếm 49,5%, nữ giới chiếm 43,5% [47]. Năm 2016, tại Anh và xứ Wales, trong tổng số các trường hợp tử vong do rượu thì chiếm tới 63% nguyên nhân là bệnh gan do rượu [48]. Tại Angola năm 2012, trong số những người bị xơ gan thì có đến 68,9% nam giới và 60,9% nữ giới cho biết đã từng sử dụng rượu bia trong thời gian dài trước đó [61]. Điều đó cho thấy tác hại của rượu đối với gan là rất lớn. Ngoài tác hại đối với gan, trên toàn thế giới, WHO ước tính có khoảng 76 triệu người rối loạn tâm thần do sử dụng rượu bia [35]. Đối với phụ nữ mang thai, việc sử dụng rượu bia sẽ tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân, sinh sớm, con bị dị tật hoặc bị hội chứng rượu bào thai FAS (Fetal Alcohol Syndrome). Tại Mỹ vào
7 năm 1996, tỷ lệ mắc hội chứng rượu bào thai được ước tính từ 0,5 đến 3 trường hợp trên 1.000 trẻ sơ sinh [39]. Sau 13 năm con số đó là 2 đến 7 trường hợp trên 1.000 trẻ và tỷ lệ mắc hội chứng rối loạn phổ rượu ở thai nhi FASDs là 20 đến 50 trường hợp trên 1.000 trẻ vào năm 2015 [51,52]. Tại Việt Nam, lạm dụng rượu bia ảnh hưởng lớn đến tình hình sức khỏe cộng đồng khi nó xếp thứ 4 trong tổng số 79 hành vi nguy cơ gây nên gánh nặng bệnh tật, tử vong trên toàn cầu năm 2015 [44]. Tai nạn giao thông và bạo lực Theo báo cáo của WHO, trong tổng số 3,3 triệu ca tử vong do rượu bia trên toàn cầu mỗi năm có đến 15% là do tai nạn giao thông sau khi sử dụng rượu bia, ở các nước phát triển, khoảng 20% số vụ tai nạn là do tài xế có nồng độ cồn trong máu cao (trên giới hạn cho phép), ở các nước kém phát triển thì cho thấy rượu có mặt ở 33% đến 69% người lái xe bị tai nạn [62]. Tại Hàn Quốc năm 2012 đã ghi nhận 25,6% số trường hợp nạn nhân bị tai nạn giao thông ở nam giới và 3,6% ở nữ giới nói đã sử dụng rượu bia ở trước đó [61]. Tại Úc, năm 2011, 70% người dân thừa nhận từng ảnh hưởng tiêu cực do người sử dụng rượu bia gây ra như: đập phá tài sản, bỏ bê vợ con, bạo lực gia đình [57]. Tại Việt Nam, theo thống kê của Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia, khoảng 40% số vụ tai nạn giao thông và 11% số người tử vong do tai nạn liên quan đến rượu bia. Theo WHO khảo sát riêng tại Việt Nam, trong tổng số 18.000 nạn nhân nhập viện do tai nạn giao thông có tới 36% số người lái xe máy có nồng độ cồn vượt ngưỡng cho phép và 66,8% số lái xe ô tô vi phạm quy định về nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện giao thông [19]. Năm 2016, rượu bia là nguyên nhân gây ra 70% số vụ tai nạn giao thông, ước tính cả nước có hơn 10.000 người tử vong do tai nạn giao thông một năm thì có hơn 7.000 người chết do lái xe sau khi sử dụng rượu bia. Tỷ lệ người điều khiển phương tiện giao thông trong vòng hai giờ sau khi uống rượu bia là 45% [4]. Nghiên cứu tai nạn giao thông liên quan đến rượu và điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ ở hai bệnh viện Việt Đức và Saint Paul năm 2008-2009 thì số nạn nhân bị tai nạn giao Thang Long University Library
8 thông có nồng độ cồn trong máu là 62%, xét nghiệm tử thi của 500 nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông thì 34% nạn nhân có nồng độ cồn trong máu [9]. Cũng thông tin từ khoa cấp cứu bệnh viện Việt Đức, chỉ trong bốn ngày tết Mậu Tuất 2018 có gần 500 ca tai nạn giao thông nhập viện, trong đó hơn 60% có liên quan đến sử dụng rượu bia [7]. Tại Úc năm 2011, trong một nghiên cứu về rượu và bạo lực từ 2011 đến 2012 cho kết quả 57% các vụ bạo lực liên quan đến rượu, 34% trong tổng số các vụ bạo lực là bạo lực gia đình và 70% trong số 34% các vụ bạo lực gia đình có nguyên nhân do rượu [32]. Khảo sát về tội phạm và công lý tại Scotland 2017- 2018 cho kết quả 46% các vụ bạo lực, người phạm tội đã chịu ảnh hưởng của rượu bia [56]. Từ 2014-2016 tại Anh và xứ Wales, 91% các vụ bạo lực xảy ra tại quán rượu hoặc câu lạc bộ có liên quan đến rượu [61]. Tại Việt Nam năm 2016, có 30% số vụ gây rối trật tự xã hội, 33,7% các vụ bạo lực gia đình có nguyên nhân xuất phát từ việc sử dụng rượu bia [7]. Một nghiên cứu cắt ngang từ 2012 đến 2013 thực hiện trên 392 học sinh ở một trường THPT tại Hà Nội về hành vi bắt nạt, bạo lực thể chất ở học sinh cấp 3 cho thấy có mối liên quan giữa tỷ lệ sử dụng rượu bia và hành vi bắt nạt, bạo lực. Cụ thể, tỷ lệ bắt nạt, bạo lực thể chất tăng dần theo các nhóm từ chưa bao giờ uống rượu bia (6%) cho đến uống nhưng chưa hết một cốc (9,3%) và cao nhất ở nhóm đã từng uống ít nhất một cốc (26,4%) [8]. Ở một nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ gây thương tích cho người khác ở những thanh thiếu niên từng say rượu bia không cao (3,5%) nhưng nó vẫn gấp nhiều lần so với những người chưa từng say rượu bia (0,4%) và có ý nghĩa thống kê (p
9 niên tốn 24,3 tỷ đô la (9,7%). Tại Anh từ 2006-2007, hệ thống y tế quốc gia (NHS) đã tốn 3,3 tỷ bảng Anh để khắc phục hậu quả của bia rượu [54]. Tại Việt Nam, trong hội thảo “cung cấp thông tin cho báo chí về phòng, chống tác hại của rượu, bia” năm 2016, cho biết cả nước đã phải chi phí cho rượu bia khoảng 60.000 tỷ mỗi năm, tổn thất về kinh tế do sử dụng rượu bia chiếm gần 3% tổng số thu ngân sách của cả nước [4]. Năm 2015, ngành sản xuất rượu đóng góp cho ngân sách khoảng 1,2 tỷ đô la, nhưng riêng thiệt hại do tai nạn giao thông liên quan đến rượu, bia năm 2010 đã tương đương 1 tỷ đô la, đó là chưa kể các gánh nặng bệnh tật, giảm suất sức lao động, thiệt hại về kinh tế, xã hội khác mà rượu, bia gây ra. Năm 2016, chỉ tính riêng tai nạn giao thông đã gây ra thiệt hại 250 tỷ đồng mỗi ngày. Rượu bia lấy đi nguồn tài chính rất quan trọng ở người nghèo, gia đình, xã hội nơi người đó sống và là nguyên nhân làm cho tình trạng nghèo đói thêm trầm trọng. Tác hại đối với thanh thiếu niên Tại Mỹ, trong báo cáo của CDC, trung bình trong giai đoạn 2006 – 2010 mỗi năm lấy đi sinh mạng của 4358 người dưới 21 tuổi trong đó nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất là tai nạn giao thông do sử dụng xe cơ giới với 1580 trường hợp [22]. Trong một nghiên cứu về sử dụng rượu bia ở sinh viên giai đoạn 1998 – 2001, có 696.000 sinh viên đại học tại Mỹ bị tấn công bởi một sinh viên khác đang uống rượu và 97.000 sinh viên báo cáo bị tấn công tình dục liên quan đến rượu hoặc hiếp dâm ngày [55]. Một nghiên cứu khác của trường Y tế Công cộng về việc sử dụng rượu bia và các mối liên quan ở sinh viên đại học Harvard Mỹ từ 1993 đến 1997 báo cáo cứ 4 sinh viên thì có 1 sinh viên bị hậu quả do việc sử dụng rượu như bị điểm thấp, tụt lại trong lớp, kết quả học tập giảm [33]. Rượu bia còn làm tăng nguy cơ quan hệ tình dục không an toàn, một nghiên cứu trên 384 sinh viên tại một số trường đại học ở Mỹ năm 2015 cho kết Thang Long University Library
10 quả 59,2% nam sinh viên và 46,5% nữ sinh viên đã từng quan hệ tình dục không an toàn sau khi sử dụng rượu bia, tính theo nhóm tuổi thì có đến 57% sinh viên trong nhóm dưới 20 tuổi, 52,2% trong nhóm từ 20 đến 24 đã quan hệ tình dục không an toàn sau khi uống rượu. Một nghiên cứu ở Anh năm 2008 về các yếu tố nguy cơ và bảo vệ của việc sử dụng rượu bia ở trẻ em 15 đến 16 tuổi cho kết quả 12,5% đã từng quan hệ tình dục ngoài ý muốn sau khi sử dụng rượu bia, 28,8% từng bị ảnh hưởng bởi bạo lực sao khi uống say và 45,3% từng quên mọi thứ sau khi uống [41]. Tại Việt Nam năm 2016, một nghiên cứu cắt ngang ở Hà Nội và Nam Định thực hiện trên đối tượng đi xét nghiệm HIV cho kết quả có mối liên quan mật thiết giữa những người có rối loạn sử dụng rượu với hành vi tình dục không an toàn [26]. 1.1.5. Khuyến cáo về sử dụng rượu bia Theo IARD International Alliance for Responsible Drinking-Tổ chức quốc tế về uống rượu bia có trách nhiệm), đến thời điểm tháng 1 năm 2017 chưa có khuyến nghị mang tính quốc tế nào liên quan đến sử dụng rượu bia được ban hành bởi TCYTTG hoặc các cơ quan khác có thể áp dụng cho dân số chung. Tuy nhiên, nhiều quốc gia đã có những hướng dẫn hay khuyến nghị riêng về sử dụng rượu bia hợp lý cho công dân trong nước. Chủ yếu các khuyến cáo trình bày theo ĐVR khuyến nghị/người/ngày, được quy đổi ra gram cồn/người/ngày và khác nhau cho từng giới tính. Lượng cồn khuyến cáo/sử dụng rượu bia vừa phải Quy định về lượng cồn khuyến cáo (recommended consumption) hay sử dụng rượu bia vừa phải (moderate drinking – NIAAA) khác nhau cho từng quốc gia, từ 8 -40,5g/người/ngày cho nam và 8 – 27g/người/ngày cho nữ. Tại Việt Nam, lượng cồn khuyến cáo là 2 ĐVR (20g cồn)/người/ngày cho nam và 1 ĐVR (10g cồn)/người/ngày cho nữ. Sử dụng rượu bia nguy cơ thấp
11 Ngoài khái niệm “lượng cồn khuyến cáo”, nhiều quốc gia còn quy định về sử dụng rượu bia nguy cơ thấp (low-risk drinking) với lượng cồn (g)/người/ngày hay lượng cồn (g)/người/tuần thường lớn hơn mức khuyến cáo và nhỏ hơn mức UQC. 1.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tiêu thụ rượu bia Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiêu thụ rượu bia bao gồm yếu tố cá nhân như tuổi, gia đình và các yếu tố xã hội như sự phát triển kinh tế, văn hóa, các loại rựơu bia hiện có, mức độ thi hành chính sách về rượu bia. Tác động của việc uống rượu bia có thể gây ra các tổn thuơng cấp tính hoặc lâu dài đối với sức khỏe trong dân số liên quan đến lượng uống và tần suất uống. Hoàn cảnh uống rượu bia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xuấ hiện các tác hại liên quan đến rượu bia, đặc biệt là ảnh huởng của ngộ độc rượu đến sức khỏe những dịp đặc biệt [23] Hình 1.1. Mô hình về mối liên hệ nhân quả giữa việc tiêu thụ rượu bia và hậu quả sức khỏe Thang Long University Library

MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ………………………………………………………………….. v DANH MỤC BẢNG ……………………………………………………………………………….. vi DANH MỤC HÌNH ……………………………………………………………………………….. vii ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………………………………. 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ………………………………………………………. 4 1.1. Tổng quan về sử dụng rượu bia………………………………………………………… 4 1.2. Tình hình sử dụng rượu bia và một số yếu tố liên quan ở sinh viên qua các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam ……………………………………….. 12 1.3. Giới thiệu thang đo AUDIT …………………………………………………………… 15 1.4. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu ……………………………………………………….. 17 CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ………………. 19 2.1. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………………………. 19 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu …………………………………………………… 19 2.3. Thiết kế nghiên cứu ………………………………………………………………………. 19 2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu ………………………………………………… 19 2.5. Phương pháp thu thập số liệu …………………………………………………………. 21 2.6. Các biến số, chỉ số trong nghiên cứu ………………………………………………. 26 2.7. Tiêu chuẩn đánh giá sử dụng trong nghiên cứu ………………………………… 29 2.8. Phương pháp phân tích số liệu ……………………………………………………….. 30 2.9. Sai số và biện pháp khắc phục ……………………………………………………….. 31 2.10. Đạo đức nghiên cứu ……………………………………………………………………. 31 CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU …………………………………………………… 33 3.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu ……………………………………… 33 3.2. Tỷ lệ sử dụng rượu bia và một số dấu hiệu, triệu chứng liên quan đến hậu quả của sử dụng rượu bia của sinh viên …………………………………………………. 36 3.3. Một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ sử dụng rượu bia của sinh viên ………. 47 CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN ……………………………………………………………………….. 55 4.1. Thực trạng sử dụng rượu bia ở sinh viên trường cao đẳng Y Dược Hồng
iv Đức năm 2020 ………………………………………………………………………………. 55 4.2. Một số yếu tố liên quan đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên…… 62 4.3. Hạn chế của nghiên cứu ………………………………………………………………… 66 KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………… 67 KIẾN NGHỊ ………………………………………………………………………………………….. 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………… PHỤ LỤC …………………………………………………………………………………………………. Thang Long University Library
v DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT ĐVR: Đơn vị rượu KTC: Khoảng tin cậy SDRB: Sử dụng rượu bia TCYTTG: Tổ chức y tế thế giới THCS: Trung học cơ sở TIẾNG ANH AUDIT: Alcohol Use Disorders Identification Test (Thang đo mức độ sử dụng rượu bia) CDC: Center for Disease Control and Prevention (Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh) DSM.IV: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders IV (Hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ) FAS: Fetal Alcohol Syndrom (Hội chứng rượu bào thai) FASDs: Fetal Alcohol Spectrum Disorders (Hội chứng rối loạn phổ rượu ở thai nhi) GDP: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội) HED: Heavy episodic drinking (Uống quá chén) HIV: Human Immunodeficiency Virus (Virus gây suy giảm miễn dịch) NIAAA: National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism (Viện nghiên cứu Quốc gia về lạm dụng và nghiện rượu Hoa Kỳ) WHO: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)
vi DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Số lượng mẫu cần lấy ở mỗi khóa ……………………………………………… 21 Bảng 2.2. Các biến số trong nghiên cứu ……………………………………………………. 26 Bảng 3.1. Một số đặc điểm dân số xã hội của đối tượng nghiên cứu …………….. 33 Bảng 3.2. Một số đặc điểm về gia đình, bạn bè của sinh viên ………………………. 35 Bảng 3.3. Mức độ sử dụng rượu bia của sinh viên ……………………………………… 37 Bảng 3.4. Tần suất và lượng sử dụng rượu bia của sinh viên ……………………….. 38 Bảng 3.5. Một số lý do sử dụng rượu bia của sinh viên ………………………………. 39 Bảng 3.6. Nhóm biểu hiện về thể chất ………………………………………………………. 40 Bảng 3.7. Biểu hiện lái xe ……………………………………………………………………….. 42 Bảng 3.8. Biểu hiện liên quan đến học tập…………………………………………………. 43 Bảng 3.9. Biểu hiện liên quan đến quy định, luật pháp ……………………………….. 44 Bảng 3.10. Biểu hiện liên quan đến bạo lực ………………………………………………. 45 Bảng 3.11. Nhóm biểu hiện khác ……………………………………………………………… 45 Bảng 3.12. Mỗi liên quan giữa môt số đặc điểm dân số xã hội liên quan đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên ……………………………………………. 47 Bảng 3.13. Nghề nghiệp và tình trạng hôn nhân của bố mẹ liên quan đến tỷ lệ sử dụng rượu bia ……………………………………………………………………………….. 48 Bảng 3.14. Một số đặc điểm gia đình liên quan đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên ………………………………………………………………………………………. 49 Bảng 3.15. Yếu tố bạn bè liên quan đến tỷ lệ sử dụng rượu bia của sinh viên … 50 Thang Long University Library
vii DANH MỤC HÌNH Hình 1.1. Mô hình về mối liên hệ nhân quả giữa việc tiêu thụ rượu bia và hậu quả sức khỏe …………………………………………………………………………………… 11 Hình 1.2. Lượng tiêu thụ rượu trung bình mỗi quốc gia vào năm 2017 và % thay đổi so với năm 2010 ………………………………………………………………………… 12 Hình 1.3. Khung lý thuyết nghiên cứu ………………………………………………………. 18 Hình 3.1. Tỷ lệ sinh viên sử dụng rượu bia………………………………………………… 36 Hình 3.2. Địa điểm thường được sử dụng để uống rượu bia …………………………

https://thuvieny.com/huc-trang-su-dung-ruou-bia-va-mot-so-yeu-to-lien-quan-o-sinh-vien-truong/

Leave a Comment