VAI TRÒ CỦA PHẪU THUẬT TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ LAO HẠCH NGOẠI VI TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG

VAI TRÒ CỦA PHẪU THUẬT TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ LAO HẠCH NGOẠI VI TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG

VAI TRÒ CỦA PHẪU THUẬT TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ LAO HẠCH NGOẠI VI TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Xuân Diễn1,, Trần Sơn Tùng1, Đàm Tọa1
1 Bệnh viện Phổi Trung ương
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: 1. Đánh giá vai trò và kết quả của phẫu thuật trong điều trị lao hạch ngoại vi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang 105 bệnh nhân (BN) lao hạch ngoại vi (LHNV) thời gian từ 1/6/2020 đến 30/6/2021 được phẫu thuật nạo viêm, làm sạch mủ, lấy tổ chức hoại tử xét nghiệm LPA, MGIT (bactec), mô bệnh học. Tất cả BN đều được điều trị bằng thuốc lao theo phác đồ của Chương trình Chống lao Quốc gia là 12 tháng (2RHZE/10RHE), thời gian liền vết thương sau phẫu thuật. Kết quả: 105 BN, 67 nữ, 38 nam, tuổi TB 32.26 ± 12.1; vị trí hạch cổ 97/105 (92.4%), phải nhiều hơn cổ trái (58 và 36), 77 BN hạch viêm hoại tử có mủ, 28 BN sinh thiết kết quả viêm lao, mô bệnh viêm lao 97 (92.4%), LPA 25/105 (23/8%), MGIT 59/105 (56.2%) dương tính. Kháng siêu kháng thuốc 1 BN; kháng nhiều nhất là Streptomycin (59.32%) và Isoniazid (20.33%), thời gian chăm sóc trung bình 2 tuần là 51.4%. Kết luận: phẫu thuật điều trị lao hạch ngoại vi đạt 2 mục tiêu giải quyết các biến chứng của lao hạch và lấy bệnh phẩm xét nghiệm phát hiện kháng thuốc.

Lao  hạch  ngoại  vi  (LHNV)  là  bệnh  dovi khuẩn  lao  Mycobacteria  tuberculosis  (MTB)  gây ra,  bệnh  gặp  nhiều  nhiều  nhất  trong  các  lao ngoài  phổi.  Điều  trị  cơ  bản  là  nội  khoa  bằng thuốc  chống  lao.  Theo  Subrahmanyam,  M [1]báo cáo 105 BN trong quá trình điều trị hạch sẽ hoại tử, tấy mủ, hoại tử da và vỡ mủ gây rò mủ kéo dài và sẹo rất xấu nên đây được gọi là biến chứng của lao hạch. Nếu không có phẫu thuật để nạo viêm và lấy bệnh phẩm xét nghiệm, liệu có tiếp tục điều trị thuốc lao tiếp hay kết thúc điều trị? Liệu vi khuẩn lao có kháng thuốc không? Vẫn còn 13% BN sưng hạch lớn hơn sau khi kết thúc điều  trị,  4%  phải  mổ  cắt  sẹo  tạo  hình  lại [2]. Chẩn đoán bằng phương pháp PCR qua FNA có giá trị 64 % phát hiện MTB, là tiêu chuẩn vàng để  biết  có  kháng  thuốc  hay  không.  Phát  hiện kháng thuốc sau khi đã điều trị phác đồ hàng 1 nhiều tháng hoặc đủ 12 tháng gây nhiều tổn hại cho  người  bệnh.  Đồng  thời,  hạch  áp  xe  hóa, viêm mủ trong quá trình điều trị gây hoại tử da, rò  mủ  kéo  dài  lần  lượt  từng  hạch.  Nếu  không được can thiệp phẫu thuật, hậu quả da sẹo xấu, co rúm ảnh hưởng đến tâm lý, tâm thần người bệnh với cộng đồng[1-3]. Phát hiện kháng thuốc lao sớm, và chủ động phẫu thuật nạo viêm, cắt bỏ  tổ  chức  hoại  tử  giúp  liền  vết  thương  sớm mang lại nhiều lợi ích  cho người bệnh là mục tiêu của nghiên cứu này.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment