Xác định các đa dạng di truyền của thymidine kinase ở herpes simplex virus tại một số cơ sở y tế miền Bắc Việt Nam

Xác định các đa dạng di truyền của thymidine kinase ở herpes simplex virus tại một số cơ sở y tế miền Bắc Việt Nam [Luận văn bác sĩ nội trú]

Title:  Xác định các đa dạng di truyền của thymidine kinase ở herpes simplex virus tại một số cơ sở y tế miền Bắc Việt Nam
Authors:  Nguyễn, Văn Đức
Advisor:  Nguyễn, Thị Thường
Trần, Minh Châu
Keywords:  Vi sinh Y học;8720101
Issue Date:  11/2025
Abstract:  Nhiễm trùng do herpes simplex virus vẫn là một mối quan tâm lớn trong y tế. Sau nhiễm trùng tiên phát, herpes simplex virus type-1 (HSV-1) và type-2 (HSV-2) có khả năng gây nhiễm tiềm tàng và có thể tái hoạt động và gây ra các tổn thương ở gần hoặc ngay tại vị trí nhiễm trùng ban đầu. Ở người có hệ miễn dịch bình thường, các tổn thương này gây khó chịu nhưng phần lớn là nhẹ, trong khi ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, sự tái hoạt động của virus thường gây tổn thương ở nhiều vị trí và có thể dẫn tới tử vong. Acyclovir (ACV), được cấp phát rộng rãi từ năm 1981, là một đồng phân guanosine có khả năng ức chế đặc hiệu quá trình nhân lên của HSV-1 và HSV-2. Nhờ tính hiệu quả và ít tác dụng phụ nghiêm trọng, ACV là thuốc lựa chọn đầu tay trong điều trị HSV. Sau khi được đưa vào tế bào nhờ protein vận chuyển nucleoside, ACV được phosphoryl hóa thành dạng triphosphate lần lượt bởi enzyme thymidine kinase của virus và tế bào. Acyclovir triphosphate, dạng hoạt động của ACV, ức chế toàn bộ chức năng enzyme polymerase của virus và được coi là một yếu tố kết thúc quá trình nhân đôi của DNA. Vì là một thuốc hoạt động phụ thuộc enzyme thymidine kinase của virus, phần lớn các trường hợp kháng thuốc là do đột biến gien thymidine kinase.
Trong khi nhiễm trùng HSV kháng ACV hiếm khi được báo cáo ở bệnh nhân có hệ miễn dịch bình thường, thì ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, HSV kháng ACV xuất hiện với tỷ lệ đáng kể, từ 3.5-7.1%, và cao nhất là 25% ở bệnh nhân được ghép tủy đồng loại. Với những bệnh nhân này, các phòng xét nghiệm virus phải đưa ra phương án tối ưu để kiểm tra tính kháng thuốc của HSV. Bên cạnh các phương pháp xác định kháng thuốc kiểu hình, việc sử dụng các phương pháp kháng thuốc kiểu gien đang dần chiếm vai trò quan trọng. Nhờ việc giải trình tự gien UL23 TK và UL30 DNA pol gien, các trường hợp nhiễm HSV kháng ACV có thể được chẩn đoán trong thời gian ngắn mà không cần tới kỹ thuật nuôi cấy phân lập virus trên tế bào. Tuy nhiên, qua kết quả giải trình tự gien, thấy rằng có một lượng đáng kể các đa dạng di truyền gien UL 23 TK của cả HSV-1 và HSV-2, gây khó khăn trong việc xác định tính kháng thuốc bằng các phương pháp kiểu gien. Do vậy các đa dạng di truyền cần được định danh đầy đủ nhất để tạo điều kiện cho việc phiên giải các đột biến gây kháng thuốc. Vì thế, mục đích của nghiên cứu này nhằm xác định các đa dạng di truyền và các đột biến gây kháng thuốc trên gien UL23 TK chưa được ghi nhận trên thế giới hoặc chưa được ghi nhận tại Việt Nam, của các chủng herpes simplex virus mà chúng tôi thu thập được từ một số cơ sở y tế ở miền Bắc Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện hai mục tiêu sau:
1. Xác định tính nhạy cảm kiểu hình của các chủng HSV-1 và HSV-2 với aciclovir trên tế bào Vero.
2. Xác định các đa dạng di truyền của gien thymidine kinase của herpes simplex virus bằng giải trình tự toàn bộ gien.
URI: 
Appears in Collections: Luận văn bác sĩ nội trú

Chuyên mục: Luận văn bác sĩ nội trú

Nguồn: https://dulieuso.hmu.edu.vn

Leave a Comment