Đảm bảo tài chính phục vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Đa khoa quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng trong 03 năm 2007 –2009
Đảm bảo tài chính phục vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Đa khoa quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng trong 03 năm 2007 –2009
Nguyễn Thị Toàn, Sở Y tế TP. Đà Nẵng,
Vũ Xuân Phú, Bệnh viện Phổi Trung ương
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe (CSSK) của người dân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và chất lượng; thể hiện qua mức chi cho y tế của toàn xã hội chiếm khoảng 5-6% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên, tỷ trọng chi từ nguồn công cộng cho y tế Việt Nam hiện còn thấp so với các nước có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới, chỉchiếm khoảng gần 30% tổng chi y tế, chi tư cho y tế xấp xỉ 70% là quá cao và được xem là “bẫy nghèo” trong y tế. Nhiều năm qua Đảng và Chính phủ Việt Nam đã định hướng phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân tiếp cận các DVYTcó chất lượng; được thực hiện thông qua các chủ trương, chính sách củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính y tế theo hướng tăng nhanh tỷ lệ các nguồn tài chính công, xã hội hóa, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp…Gần đây nhất là chính sách BHYT toàn dân với lộ trình thực hiện đến năm 2014 và bắt đầu áp dụng phương thức thanh toán mới như định suất, theo nhóm bệnh,…Như vậy, Bệnh viện (BV) công lập, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở đang đối mặt với thách thức lớn trong tự chủ tài chính; bởi ngoài nhiệm vụ cung cấp DVYT, còn phải giữ vai trò của cơ quan quản lý quỹ và phải đảm bảo các chính sách xã hội trong khám chữa bệnh (KCB) của Đảng và Nhà nước.Nhiều nghiên cứu chỉ rõ chi tiêu cho y tế thấp ở những nước đang phát triển dẫn đến suy giảm chất lượng và tính công khai của dịch vụ (DV) công cộng, chi phí y tế cao tạo rào cản tài chính đối với tiếp cận DV của người nghèo, trẻ em (TE),…khi thực hiện tự chủ các BV đều thực hiện những đổi mới trong cơ chế quản lý tài chính như huy động vốn từ nguồn XHH, mở rộng DV, ký hợp đồng một số DV bên ngoài, công khai tài chính,…các khoản chi phí trực tiếp cho bệnh nhân (thuốc, máu, dịch truyền, vật tư tiêu hao (VTTH) hiện nay chiếm khoảng 55% tổng chi phí điều trị. Nghiên cứu này mô tả và đánh giá thực trạng công tác KCB và đảm bảo tài chính trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2009 và đưa ra các khuyến nghị nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất