Khảo sát mức độ biến đổi Nucleotide gen E6, E7 và L1 của human papillomavirus type 16 và 18 ở bệnh nhân ung thư cổ tử cung
Khảo sát mức độ biến đổi Nucleotide gen E6, E7 và L1 của human papillomavirus type 16 và 18 ở bệnh nhân ung thư cổ tử cung
Hoàng Xuân Sơn, Vũ Bá Quyết, Nguyễn Vũ Trung
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Trong số các type HPV gây bệnh ở người, type 16 và 18 là hai type có tỷ lệ gây ung thư cổ tử cung rất cao. Các nghiên cứu cho thấy sự biến đổi trình tự nucleotide trong bộ gen của type 16, 18 có thể thúc đẩy tiến triển ung thư cổ tử cung và các triệu chứng khác ở người bệnh. Trong nghiên cứu này, chúng tôi phân tích sự biến đổi trình tự nucleotide trên các gen E6, E7 và L1 của hai type HPV 16 và 18 ở những người bệnh đã được xác định mắc ung thư cổ tử cung. Sàng lọc 104 bệnh nhân, có 63 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu, bao gồm 46 trường hợp nhiễm đơn HPV-16 và 17 trường hợp nhiễm đơn HPV-18. Kết quả phân tích trình tự nucleotide của các gen E6, E7, L1 của các type này cho thấy: Type HPV 16 có 13 biến đổi được tìm thấy ở gen E6; tỷ lệ đột biến cao nhất là T350G với 100%; thấp nhất là A378G 10,9%. Trên gen E7, vị trí có tỷ lệ đột biến cao nhất là C578T ở với 60,9% và thấp nhất là A739G với 13,0%. Trên gen L1 xác định được 40 đột biến, trong đó đột biến G7060A chiếm tỷ lệ cao nhất là 80,4%. Type HPV 18, ở gen E6 xuất hiện 14 đột biến, tỷ lệ cao nhất là G532T với 41,2%; Trên gen E7 tìm thấy 6 đột biến, trong đó đột biến C894T và C898T chiếm tỷ lệ 47,1%; Có 24 đột biến tìm thấy ở gen L1, đột biến cao nhất xuất hiện ở vị trí G5612T với 17,6%.
Ung thư cổ tử cung là loại ung thư phổ biến nhất trong số các loại ung thư ác tính ở đường sinh sản nữ.1 Dữ liệu dịch tễ học cho thấy nhiễm trùng dai dẳng với Human Papillomavirus (HPV) có thể gây ung thư cổ tử cung, đặc biệt là nhiễm type HPV-16 và 18.2,3,4 Các nghiên cứu cho thấy ung thư cổ tử cung chủ yếu liên quan đến hai type HPV là 16 và 18.5,6
Dự liệu nghiên cứu cho thấy HPV type 16 và 18 có sự đa dạng di truyền (biến thể – variant), khác biệt ≤ 2% trình tự hệ gen so với chủng hoang dã và được phân loại thành các nhánh phát sinh loài (phylogenetic branches). Một số nghiên cứu ghi nhận có sự liên quan giữa các biến thể với sự nhiễm trùng dai dẳng của HPV và sự hình thành các tổn thương ác tính. Một số biến thể được tìm thấy có liên quan tới ung thư cổ tử cung, đặc biệt là một số biến thể mang các đột biến gây ung thư tiềm năng như L83V và D25E (type 16) trên gen E6.