Nghiên cứu hiệu quả hai phương pháp đông phôi chậm và đông phôi thủy tinh hóa

Nghiên cứu hiệu quả hai phương pháp đông phôi chậm và đông phôi thủy tinh hóa

Nghiên cứu hiệu quả hai phương pháp đông phôi chậm và đông phôi thủy tinh hóa.Thành công của một quy trình thụ tinh trong ống nghiệm được thể hiện qua tỉ lệ mang thai. Hiện nay, xu hướng giảm số lượng phôi chuyển nhưng không làm giảm tỉ lệ mang thai. Việc lựa chọn phôi có chất lượng tốt nhất để chuyển, kết hợp với chương trình trữ lạnh sẽ giúp người bệnh tiết kiệm chi phí đáng kể, đồng thời góp phần cải thiện tỉ lệ thai cộng dồn trên một chu kỳ có kích thích buồng trứng và tăng tính an toàn của kỹ thuật điều trị. Theo thống kê của Van Voorhis (1995), trữ lạnh phôi có khả năng làm tăng tỉ lệ mang thai lên khoảng 6,6%, tính trên mỗi noãn thu được sau chọc hút và chi phí điều trị sẽ giảm 25-45% so với chu kì chuyển phôi tươi, bên cạnh đó kết quả sản khoa lại cao hơn hẳn[1],[2],[3],[4].


Đã có 2 phương pháp trữ lạnh được áp dụng là: Hạ nhiệt độ chậm và thủy tinh hóa. Sự khác biệt chính của 2 phương pháp này là tốc độ hạ nhiệt và nồng độ chất bảo quản.
Hạ nhiệt độ chậm được Whittingham giới thiệu lần đầu tiên vào những năm đầu thập niên 70 trên mô hình phôi chuột. Em bé đầu tiên từ phôi người đông lạnh trên thế giới ra đời bằng phương pháp này được ghi nhận vào năm 1983 [5].
Trong phương pháp hạ nhiệt độ chậm, mẫu tế bào được làm lạnh với tốc độ hạ nhiệt chậm (1-30C/1 phút) từ nhiệt độ sinh lý xuống nhiệt độ rất thấp (khoảng – 800C) trước khi đưa mẫu vào lưu trữ trong ni – tơ lỏng. Ngoài ra, tốc độ rã đông cũng diễn ra chậm, quá trình xâm nhập và loại bỏ các chất bảo vệ đông lạnh (CPA) được diễn ra qua nhiều bước nhỏ. Do nồng độ các CPA sử dụng thấp và trải qua nhiều bước, tế bào tránh được sốc thẩm thấu gây ra bởi nồng độ CPA, đồng thời khả năng gây độc cho tế bào thấp. 
Vào năm 1985, Rall và Fahy đã chứng minh được phôi chuột có thể được đông lạnh thành công bằng một phương pháp mới, được gọi là thủy tinh hóa(non – equylibrium cryopreservation method) [6]. Em bé đầu tiên trên thế giới ra đời bằng kỹ thuật này được báo cáo vào năm 2002 (Liebermann và cs.,2002; Shaw và Jones,2003) [7], [8].
Trong kỹ thuật thủy tinh hóa, ba yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công của kỹ thuật là nồng độ của các CPA sử dụng, tốc độ hạ nhiệt/làm ấm và thể tích mẫu trữ lạnh (Vajta và Nagy, 2006), (Yahin và Arav, 2007) [9],[10]. Để có thể chuyển một lượng môi trường có chứa phôi từ dạng lỏng thành dạng “kính”, các CPA cần phải được sử dụng ở nồng độ rất cao. 
 Trong một thời gian khá dài, dù có những hạn chế về mặt hiệu quả nhưng hạ nhiệt độ chậm đã được xem là một phương pháp trữ lạnh chuẩn mực trong ngành công nghiệp chăn nuôi cũng như trong IVF trên người.
Trái lại, một khoảng thời gian dài sau khi được giới thiệu, thủy tinh hóa vẫn được xem là một kỹ thuật mang tính thử nghiệm vì nhiều lý do. Trong đó, lo ngại về các độc tính có thể có của việc sử dụng chất bảo quản nồng độ cao trên phôi và khó khăn trong việc thiết lập một hệ thống làm lạnh với tốc độ cao là những trở ngại chính. Vì vậy, cho đến nay, các nhà khoa học trên thế giớivẫn liên tục thực hiện các nghiên cứu so sánh ưu nhược điểm của 2 phương pháp, cũng như theo dõi sức khỏe, bệnh tật của những trẻ sinh ra từ 2 phương pháp trữ lạnh để đưa ra lựa chọn tối ưu an toàn.
Tại trung tâm hỗ trợ sinh sản Quốc Gia, kỹ thuật đông lạnh chậm được thực hiện thành công năm 2002, thủy tinh hóa bắt đầu triển khai năm 2006, với phôi giai đoạn phân chia (phôi ngày 2 và phôi ngày 3). Tại thời điểm nghiên cứu (2012- 2013), hầu hết các trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam, đều đã thực hiện thủy tinh hóa phôi mới và tiếp tục rã đông những phôi đã đông lạnh chậm. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu theo dõi dọc nào tại Việt Nam, đánh giá hiệu quả các quy trình trữ lạnh thông qua các tiêu chí:tỷ lệ phôi sống, tỷ lệ có thai, tỉ lệ sinh sống, cũng như các yếu tố liên quan, tiên lượngkết quảcó thai, theo dõi sự hình thành phát triển chiều cao, cân nặng, thể chất, trí tuệ, tâm vận động, bệnh tậttừ khisinh ra cho đến khi 4 tuổi để đưa ra tiên lượng cho sự phát triển tiếp theo cho những trẻ sinh ra từ 2 phương pháp này.
Do đó chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả hai phương pháp đông phôi chậm và đông phôi thủy tinh hóa” với 2 mục tiêu:
1. Đánh giá đặc điểm phôi sau rã đông của hai phương pháp đông phôi chậm và đông phôi thủy tinh hóa.
2. Đánh giá một số yếu tố liên quan và tiên lượng của hai 2 phương pháp đông phôi chậm và đông phôi thủy tinh hóa.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment