Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads

Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads

Luận án Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads. Ung thư gan, chủ yếu là ung thư biểu mô tế bào gan (gọi tắt là ung thư tế bào gan – UTTBG), là một trong những loại ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng thứ 3, sau ung thư phoi và ung thư dạ dày. Tỷ lệ mắc UTTBG khác nhau giữa các vùng địa lý trên thế giới, do liên quan đến sự khác biệt về tần suất của các yếu tố nguy cơ, trực tiếp nhất là tình trạng nhiễm virút viêm gan B và C mạn tính. Việt Nam nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ mắc UTTBG cao nhất thế giới, phù hợp với tỷ lệ nhiễm virút viêm gan B và C rất cao [3],[12] [57]. Theo số liệu mới nhất từ GLOBOCAN 2012, ở nước ta hiện nay ung thư gan là loại ung thư đứng hàng thứ 2 chỉ sau ung thư phổi, và là loại ung thư gây tử vong hàng đầu ở nam giới [57].

Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads UTTBG là loại ung thư có tiên lượng xấu, phần lớn số trường hợp phát hiện bệnh ở giai đoạn tiến triển hoặc giai đoạn muộn, không phù hợp với các phương pháp điều trị triệt căn như phẫu thuật cắt gan, ghép gan, phá hủy khối u qua da. Cho tới nay, phẫu thuật vẫn được xem là phương pháp điều trị tối ưu cho UTTBG. Tuy nhiên phương pháp này chỉ có thể áp dụng cho khoảng 20-30% số trường hợp tại thời điểm chẩn đoán, do tình trạng khối u gan cùng với bệnh lý gan tiềm tàng làm cản trở đến chỉ định phẫu thuật [30],[36],[43].
Tắc mạch hóa chất từ lâu đã được chấp nhận rộng rãi như là một phương pháp điều trị tạm thời cơ bản cho các bệnh nhân UTTBG không còn chỉ định phẫu thuật, với hiệu quả đã được chứng minh trong các thử nghiệm lâm sàng về khả năng kiểm soát được sự phát triển của khối u cũng như kéo dài thời gian sống thêm cho bệnh nhân, khi so sánh với điều trị hoá chất toàn thân hoặc chỉ điều trị triệu chứng [3],[24],[43],[103]. Tuy nhiên, tỷ lệ hoại tử hoàn toàn khối u thấp và có thể gặp các biến chứng nặng lên gan và toàn thân sau can thiệp. Phương pháp tắc mạch sử dụng hạt vi cầu tải hóa chất được phát triển dựa trên cơ sở kỹ thuật hóa tắc mạch truyền thống, với việc sử dụng các hạt vi cầu không chỉ là tác nhân tắc mạch mà còn là chất mang hóa chất và giải phóng hóa chất một cách bền vững, cho phép duy trì nồng độ hóa chất cao và lâu dài hơn trong khối, u đồng thời giảm nồng độ thuốc ở tuần hoàn chung. DC Beads™ (Biocompatibles UK, Surrey, UK) là một dạng hạt vi cầu được thiết kế đặc hiệu cho kỹ thuật tắc mạch, có thể được chuyển tải cùng với hóa chất chống ung thư như doxorubicin. Tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads đã được chứng minh trong một số thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng về hiệu quả cao hơn và ít tác dụng phụ hơn so với tắc mạch hóa chất truyền thống [3],[12],[89],[120].
Phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới, nhất là ở các nước châu Âu. Ở nước ta hiện nay, chỉ có một số cơ sở y tế lớn mới bắt đầu triển khai ứng dụng phương pháp này này trong điều trị UTTBG, và chưa có một công trình nghiên cứu nào về hiệu quả cũng như độ an toàn của phương pháp. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads” với các mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads.
2. Đánh giá các tác dụng không mong muốn và biến chứng của phương pháp tắc mạch hóa chất sử dụng hạt vi cầu DC Beads trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Thái Doãn Kỳ, Mai Hồng Bàng, Nguyễn Tiến Thịnh, Vũ Văn Khiên, Lê Văn Trường, Trần Văn Riệp, Trịnh Tuấn Dũng, Dương Minh Thắng, Nguyễn Lâm Tùng, Trịnh Xuân Hùng, Nguyễn Cảnh Bình, Phạm Minh Thông (2013), “Kết quả bước đầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp hóa tắc mạch với hạt vi cầu tải hóa chất”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, Tập 8- Số đặc biệt, tr. 39-46.
2. Thai Doan Ky, Mai Hong Bang, Nguyen Tien Thinh, Vu Van Khien, Le Van Truong, Nguyen Thi Minh Phuong, Nguyen Lam Tung, Duong Minh Thang, Nguyen Viet Long, Pham Quang Tap, Nguyen Thi Thanh Thuy, Trinh Xuan Hung, Pham Minh Thong. (2015), “Long-term survival result of patients with hepatocellular carcinoma treated by Trans-arterial Chemoembolization using drug-loeaded microspheres”, Journal of 108- Clinical Medicine and Pharmacy, Vol
10: pp. 1-6.
3. Thái Doãn Kỳ, Nguyễn Tiến Thịnh, Mai Hồng Bàng, Phạm Minh Thông (2015), “Đáp ứng sớm khối u và AFP huyết thanh sau can thiệp dự báo tích cực sống thêm lâu dài của các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng phương pháp hóa tắc mạch DC Beads”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 2 (tập 431), tr. 77-82.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Phạm Hoàng Anh, Nguyễn Thị Hạnh,Trần Hồng Trường (1991), “Tỷ lệ mắc ung thư của người Hà Nội ước tính qua 3 năm thực hiện ghi nhận”, Tạp chí Y học Việt Nam, Số 158, tr. 13-16.
2. Mai Hồng Bàng (2011), Điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng các phương pháp can thiệp qua da, Sách chuyên khảo dùng cho bậc sau đại học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
3. Mai Hồng Bàng (2011), Điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng các phương pháp can thiệp qua đường động mạch, Sách chuyên khảo dùng cho bậc sau đại học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
4. Bùi Diệu, Nguyễn Thị Hoài Nga (2012), “Khảo sát giai đoạn bệnh ở bệnh nhân ung thư đến khám và điều trị tại một số cơ sở chuyên khoa ung bướu”, Tạp chí Ung thư học Việt nam, Số 4, tr. 29-32.
5. Lê Văn Don, Vũ Văn Khiên, Nguyễn Anh Tuấn và CS. (2000), “Giá trị của AFP trong chẩn đoán xác định, tiên lượng và theo dõi điều trị một số thể ung thư gan nguyên phát”, Nội khoa, Số 2, tr. 8-11.
6. Nguyễn Bá Đức (2006), Nghiên cứu dịch tễ học, chẩn đoán và điều trị phòng chống một số bệnh ung thư ở Việt Nam (vú, gan, dạ dày, phổi, máu), Báo cáo tổng kết khoa học kỹ thuật đề tài cấp nhà nước, Bệnh viện K.
7. Lê Ngọc Hà (2011), “Đặc điểm hình ảnh và vai trò của FDG PET/CT trong chan đoán và tiên lượng ung thư biểu mô tế bào gan và ung thư gan thứ phát”, Tạp chí Y dược Lâm sàng 108, Số 6(1), tr. 1-7.
8. Nguyễn Thị Vân Hồng (2015), Các bảng điểm ứng dụng trong thực hành tiêu hóa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.33-38.
9. Lê Minh Huy, Hứa Thị Ngọc Hà, Nguyễn Sào Trung (2011), “Các đặc điếm có giá trị tiên lượng trong ung thư biếu mô tế bào gan”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(1), tr. 1-9.
10. Vũ Văn Khiên (2006), Vai trồ các dấu ấn ung thư trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan, Ung thư gan nguyên phát, Vũ Bằng Đình Hà Văn Mạo chủ biên, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
11. Lê Trung Hải và CS. (2009), “Một số tiến bộ trong ghép gan từ người cho sống”, Tạp Chí Gan mật Việt Nam, Số 7, tr. 42-46.
12. Đào Văn Long (2015), Ung thư biểu mô tế bào gan, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
13. Huỳnh Đức Long và CS. (2000), “Ứng dụng phương pháp gây nghẽn mạch kết hợp với tiêm thuốc hóa trị TOCE trong điều trị ung thư gan nguyên phát báo cáo 201 trường hợp tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, Thời sự Y dược học, Số10, tr. 233-237.
14. Nguyễn Công Long, Đào Văn Long, Phạm Thị Kim Dung và CS. (2015), “Đánh giá hiệu quả của nút hóa chất động mạch gan ở bệnh nhân ung thư biếu mô tế bào gan theo dõi sau 5 năm”, Y học lâm sàng, Số 84, tr. 25-30.
15. Hà Văn Mạo (2009), Xơ gan, Bệnh học Gan Mật Tụy, Vũ Bằng Đình Hà Văn Mạo chủ biên, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
16. Lê Hoàng Minh, Phạm Xuân Dũng, Đặng Huy Quốc Thịnh và CS. (2012), “Thống kê ung thư Thành phố Hồ Chí Minh: xuất độ và xu hướng ung thư từ 2006 đến 2010 “, Tạp chí Ung thư học Việt nam, Số 4, tr. 19-28.
17. Đoàn Hữu Nam, Phó Đức Mần, Bùi Chí Viết và CS. (2000), “Phẫu thuật ung thư gan nguyên phát tại Trung tâm Ung bướu TP Hồ Chí Minh từ tháng1/1995 đến tháng 1/2000”, Tạp chí thông tin Y Dược, số chuyên đề ung thư tháng 8/2000, tr. 117-123.
18. Dương Minh Thắng (2008), Nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa dầu kết hợp tiêm ethanol qua da, Luận án Tiến sỹ Y học, Học viện Quân y, Hà Nội.
19. Dương Minh Thắng, Mai Hồng Bàng, Nguyễn Tiến Thịnh và CS. (2008), “Biến đổi các chỉ tiêu cận lâm sàng ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng phương pháp tắc mạch hóa dầu”, Tạp chí Y dược học Quân sự, 33(7), tr. 59-63.
20. Lê Văn Thành (2014), Nghiên cứu chỉ định và kết quả phẫu thuật cắt gan kết hợp phương pháp Tôn Thất Tùng và Lortat-Jacob điều trị ung thư biểu mô tế bào gan, Luận án Tiến sỹ Y học, Viện Nghiên cứu Khoa học Y dược Lâm sàng 108, Hà Nội.
21. Nguyễn Tiến Thịnh (2010), Nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp đốt nhiệt sóng cao tần kết hợp tắc mạch hóa dầu, Luận án Tiến sỹ Y học, Viện Nghiên cứu Khoa học Y dược Lâm sàng 108, Hà Nội.
22. Phạm Minh Thông (2004), “Đánh giá kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng nút hoá chất động mạch gan trên 134 bệnh nhân ở Bệnh Viện Bạch Mai”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, Số 27(1), tr.99-104.
23. Nguyễn Khánh Trạch, Nguyễn Trường Sơn, Trần Minh Phương và CS. (2002), “Nhận xét kết quả điều trị ung thư gan nguyên phát bằng phương pháp tiêm hóa chất và nút động mạch gan tại khoa Tiêu hóa Bệnh viện Bạch Mai”, Tạp chí Nội khoa, Số 1, tr. 6-11.
24. Lê Văn Trường (2006), Nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan kích thước trên 5cm bằng phương pháp tắc mạch hóa dầu chọn lọc, Luận án Tiến sỹ Y học, Học Viện Quân Y.
25. Văn Tần và Cộng sự (2004), “Cắt gan trong ung thư gan nguyên phát”, Y học Việt Nam, Số 297, tr. 13-18.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment