Sự thay đổi kích thước khối phình động mạch chủ bụng và một số yếu tố liên quan sau can thiệp đặt Stent Graft
Sự thay đổi kích thước khối phình động mạch chủ bụng và một số yếu tố liên quan sau can thiệp đặt Stent Graft
Phạm Minh Tuấn, Trần Văn Đông
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nhằm đo đạc các đặc điểm hình thái của động mạch chủ bụng và các yếu tố nguy cơ gây thay đổi kích thước của động mạch chủ bụng sau can thiệp đặt stent graft. Từ tháng 1 – 2018 đến 9 – 2019, 46 bệnh nhân được can thiệp đặt stent graft động mạch chủ bụng, được tiến hành đo đạc các kích thước động mạch chủ theo quy trình. Các bệnh nhân được theo dõi sau 1 năm can thiệp, các biến cố được ghi nhận đầy đủ theo hồ sơ nghiên cứu. Bệnh nhân thường gặp nhất là 60 – 80 tuổi (65,2%), chiều dài cổ trung bình là 33,9 ± 11 mm, đường kính cổ (ngang mức động mạch thận thấp hơn) là 21,2 ± 0,3 mm, đường kính cổ (dưới động mạch thận thấp hơn 10 mm) là 21,1 ± 0,4 mm. Gập góc tại cổ khối phình là 23,0 ± 13,9 mm. Chiều dài khối phình trung bình là 94,2 ± 13 mm, đường kính khối phình tối đa đo được trung bình là 60,4 mm. Sau 12 tháng: kích thước tối đa khối phình: có 14,3% (6 bệnh nhân) xuất hiện tăng kích thước khối phình; 47,6% (20 bệnh nhân) giảm trên 5mm; 38,1% (16 bệnh nhân) có kích thước tối đa khối phình giảm từ 0 đến 5 mm. Tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu này là 8,7% (4 bệnh nhân). Tỉ lệ endoleak typ II vào tuần thứ nhất sau can thiệp và sau 12 tháng theo dõi lần lượt là 17,4% (9 bệnh nhân) và 9,5% (4 bệnh nhân). Tuổi cao là yếu tố làm tăng nguy cơ xuất hiện gia tăng kích thước khối phình sau can thiệp.
Hiện nay, bệnh lý phình động mạch chủ bụng ngày càng trở nên phổ biến. Theo ước tính tại các nước phát triển, tỉ lệ phình động mạch chủ bụng khoảng 2 – 8%, trong đó tỉ lệ nam giới cao hơn nữ giới (4 – 8% ở nam giới trên 50 tuổi so với 1 – 1,3% ở nữ giới).1 Tỉ lệ mắc bệnh tăng theo tuổi ở cả nam và nữ, nhất là ở độ tuổi trên 60. Ở Việt Nam hiện nay chưa có các nghiên cứu đánh giá tỉ lệ hiện mắc của phình động mạch chủ bụng đoạn dưới thận ở cộng đồng dân cư, tuy nhiên theo một nghiên cứu của Văn Tần và cộng sự2 tiến hành năm 2008, tỉ lệ mắc hiện tại vào khoảng 0,8%.Phình động mạch chủ bụng nếu không được điều trị kịp thời sẽ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Tại Hoa Kỳ năm 2010, ước tính khoảng 7000 người tử vong do phình động mạch chủ bụng vỡ.3 Các biến chứng thường gặp của phình động mạch chủ bụng bao gồm vỡ túi phình, thiếu máu tạng do khối phình chèn ép.Cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, các phương pháp điều trị phình động mạch chủ bụng đoạn dưới thận đã có những bước tiến rõ rệt, trong đó có phương pháp can thiệp nội mạch: đặt stent graft qua đường ống thông (EVAR). Phương pháp này thể hiện những ưu điểm so với phẫu thuật ở khía cạnh giảm đáng kể tỉ lệ tử vong quanh can thiệp.