Tình trạng dinh dưỡng và thực trạng nuôi dưỡng của bệnh nhân suy tim cấp tại Viện Tim mạch Việt Nam 2020
Tình trạng dinh dưỡng và thực trạng nuôi dưỡng của bệnh nhân suy tim cấp tại Viện Tim mạch Việt Nam 2020
Nguyễn Thị Huế, Phạm Minh Tuấn
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân suy tim cấp ảnh hưởng đến việc điều trị và phương pháp nuôi dưỡng trong thời gian nằm viện. Nghiên cứu trên 103 bệnh nhân, khi nhập viện tỷ lệ SDD theo BMI chung là 20,4%, ở nhóm suy tim cấp không phù SDD chiếm 20% (nam 22,2% cao hơn nữ là 15,4%). Tỷ lệ nguy cơ dinh dưỡng cao theo thang điểm mNUTRIC là 35,9%, tỷ lệ nguy cơ cao ở nam (30,3%) thấp hơn ở nữ (45,9%) sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong 1 tuần nằm viện bệnh nhân giảm nhiều nhất 8kg và tăng nhiều nhất 7,3kg. Gián đoạn nuôi dưỡng chiếm 60,2%. Lý do gây gián đoạn cao nhất là tồn dư dịch dạ dày cao chiếm 33,9%, làm thủ thuật chiếm 26,2%. Khẩu phần ăn: Năng lượng thực tế đạt được cao nhất chiếm 66,5% lượng cung cấp. Tỷ lệ bệnh nhân đạt mức năng lượng 25 – 30 kcal/kg/ngày thấp nhất vào ngày đầu tiên (6,8%), cao nhất vào ngày thứ 7 (17,2%). Cần chú ý đánh giá TTDD và khẩu phần ăn, gián đoạn nuôi dưỡng để có biện pháp can thiệp kịp thời.
Suy tim là một hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi các triệu chứng điển hình (khó thở, phù chân và mệt mỏi) mà có thể đi kèm với các dấu hiệu (tĩnh mạch mạch cổ nổi, ran phổi và phù ngoại vi) gây ra bởi bất thường cấu trúc và/hoặc chức năng tim mạch, dẫn đến cung lượng tim giảm và/hoặc áp lực trong tim cao lúc nghỉ hoặc khi gắng sức/tress. 1 Suy tim cấp tính (AHF) được đặc trưng bởi các triệu chứng và dấu hiệu suy tim nhanh chóng cần điều trị khẩn cấp, thường xuyên phải nhập viện. Các hướng dẫn gần đây nhận ra rằng các bệnh nhân AHF có thể không có tiền sử suy tim trước đó và do đó là các trường hợp khởi phát mới (de – novo). 2 Tiên lượng của bệnh nhân mắc AHF vẫn còn kém. Tỷ lệ tử vong tại bệnh viện cao tới 5 – 10% và khoảng 25% bệnh nhân tử vong trong năm đầu tiên sau khi nhập viện.